Câu hỏi đã có từ lâu nay lại tiếp tục được đặt ra trong bối cảnh nhiều chính sách mới về KH&CN được đầu tư thiết kế và ban hành nhằm tạo ra những đột phá thực sự.
Thật khó để đưa ra ngay một câu trả lời với những thông số được hiển thị một cách rõ ràng và thỏa mãn được tất cả mọi người, bởi lẽ, không phải lúc nào cũng có thể ghi nhận được một cách trực diện và ngay lập tức tác động của KH&CN lên mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Khác với nhiều lĩnh vực khác, tác động của KH&CN thường rất tinh tế, đòi hỏi thời gian để trưởng thành và lan tỏa.
Có lẽ, để có được một cái nhìn toàn diện và từ đó đưa ra một câu trả lời thuyết phục, chúng ta cần nhìn về quá khứ, thậm chí một quá khứ chưa xa của KH&CN ở Việt Nam. Cuộc tọa đàm “Đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước” do Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam (MEDDOM), được tổ chức ngày 7/6/2025, trở thành một cơ hội như vậy.
Khoa học đặt nền móng cho sự phát triển
Độ lùi của thời gian khiến nhiều đánh giá thường trở nên công bằng và khách quan. Hầu hết các cuộc lội dòng thời gian, trở về với quá khứ, từ thời điểm thành lập nước vào tháng 9/1945 cho đến nay, ở hầu hết các ngành như y học, nông nghiệp, quân sự… đều gặp nhau ở một điểm: khoa học đã thực sự đặt nền móng cho sự phát triển của đất nước. “Theo Bộ NN&PTNT, KH&CN đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Các chương trình được triển khai mang lại hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng giá trị xuất khẩu nông sản đạt kim ngạch kỷ lục 62,5 tỷ USD năm 2024. Các mặt hàng nông sản chính như gạo, cà phê, rau quả, gỗ, hạt điều, thủy sản đều ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng”, giáo sư Trần Đức Viên, nguyên hiệu trưởng Học viện Nông nghiệp Việt Nam đánh giá về vai trò của KH&CN trong ngành nông nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những số liệu này, có thể người ta không đánh giá được hết những giá trị phát triển mà KH&CN đem lại cho ngành nông nghiệp và nhìn rộng ra là cho một đất nước trong “Giai đoạn đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Việt Nam cũng là giai đoạn khó khăn nhất, gian khổ nhất vì vừa phải kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập cho đất nước, vừa phát triển kinh tế trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn. Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực yếu kém. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35 USD”, giáo sư Trần Đức Viên nói. Đây cũng là giai đoạn ngành nông nghiệp Việt Nam áp dụng các cải tiến kỹ thuật để gia tăng năng suất, xây dựng nền móng, mở đường phát triển cho nền kinh tế.
Giá trị của sự lựa chọn này đã được thời gian chứng thực khi tạo nền tảng cho những đóng góp của KH&CN trong ngành nông nghiệp. “Các nhà khoa học như GS Bùi Huy Đáp, GS Lương Định Của, GS Đào Thế Tuấn, GS Đường Hồng Dật, GS Vũ Tuyên Hoàng... đặt nền móng cho hệ thống nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam, mở đường cho những hoạt động chính như cải tạo giống cây trồng: Phục vụ chiến tranh và đời sống nhân dân với các giống cây chịu hạn, chống sâu bệnh; gắn nghiên cứu với thực tiễn: Hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp, tổ chức phong trào thi đua nông nghiệp phục vụ kháng chiến, ‘thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người’; tiến hành công tác điều tra cơ bản tài nguyên đất, phân loại thực vật rừng ở miền Bắc”.
Khoa học Việt Nam đang cần những chính sách mới khuyến khích hợp tác liên ngành, loại bỏ các thủ tục hành chính, loại bỏ các khung kiểm soát tài chính khoa học quá chặt chẽ và sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Tuy những tinh thần này đã được đề cập đến trong ba nghị quyết quan trọng nhưng cần thiết sớm hiện thực hóa tinh thần của các nghị quyết này trong những văn bản hướng dẫn cụ thể.
|
Tương tự ngành nông nghiệp, ngành y cũng bước đầu xây dựng cơ sở hạ tầng và đội ngũ nghiên cứu, thực hành. “Các viện nghiên cứu y dược học được thành lập, các trường đại học mở rộng quy mô đào tạo, các bệnh viện được tái thiết và xây mới”, giáo sư đại tá Lê Gia Vinh, nguyên phó chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam, cho biết tại tọa đàm.
Có lẽ, ở thời điểm này, khi Việt Nam đã áp dụng những cách tiếp cận tiên tiến trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe như các loại hình phẫu thuật hiện đại, các loại vaccine hữu hiệu hay những phác đồ điều trị nhiều bệnh hiểm nghèo thì người ta không thể hình dung được những căn bệnh tưởng chừng bình thường như đau mắt hột, sốt rét, giun sán, lao, bệnh than… lại có thể là những thách thức ở thời kỳ đầu. Một trong số đó là sốt rét, căn bệnh từng quét qua các đồn điền thời Pháp thuộc và khiến người Pháp phải đau đầu, sau tiếp tục là một trong những nỗi ám ảnh của những người đi khai hoang trong phong trào khai hoang xây dựng kinh tế mới. “Năm 1957, Việt Nam thành lập Viện Sốt rét do giáo sư Đặng Văn Ngữ làm viện trưởng và trạm sốt rét ở các tỉnh, mở đầu cho giai đoạn phòng chống sốt rét một cách có hệ thống”, giáo sư Lê Gia Vinh cho biết. Với sự hỗ trợ của các chuyên gia Xô viết, ông đã điều tra về những điều kiện ở vùng núi phía Bắc như Thái Nguyên, một phần của một cuộc điều tra về bệnh sốt rét giai đoạn 1955 – 1957, xuất bản nhiều bài báo cùng một bản đồ bệnh sốt rét ở Việt Nam. Ông cũng thử nghiệm áp dụng những kỹ thuật mới do Liên Xô phát triển và WHO giới thiệu ngay tại các trạm chống sốt rét và thiết lập các cuộc vận động, tuyên truyền ở nhiều quy mô khác nhau, đưa các hiểu biết mới về sốt rét vào chương trình bình dân học vụ hoặc các buổi nói chuyện về vệ sinh phòng bệnh. Kết quả là Việt Nam đã tiến tới thanh toán hoàn toàn bệnh sốt rét ở miền Bắc, giáo sư Lê Gia Vinh nói.
Những lát cắt thời gian, xuyên qua hai lĩnh vực quan trọng là nông nghiệp và y học, cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của khoa học trong ngay từ những năm đầu thành lập nước. So với hiện tại, “Bức tranh khoa học Việt Nam ở thời kỳ này tuy còn giản đơn, mới chỉ như những nét chấm phá, nhưng rất quan trọng, có ý nghĩa mở đầu, để rồi các nhà khoa học thế hệ ấy sẽ đóng vai trò xuyên suốt trong những chặng đường tiếp theo của lịch sử khoa học Việt Nam…”, giáo sư Nguyễn Văn Huy, cố vấn chuyên môn MEDDOM và TS. Nguyễn Thanh Hóa, giám đốc MEDDOM, chia sẻ trong bài viết “Nghĩ về lịch sử khoa học và bảo tàng khoa học Việt Nam” trên Khoa học và phát triển năm 2023.
Theo thời gian, các nhà khoa học thế hệ ban đầu đều trở thành những người đặt nền móng cho khoa học Việt Nam và để lại nhiều dấu ấn trên chặng đường phát triển của đất nước: Hồ Đắc Di, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Đỗ Xuân Hợp (y học), Bùi Huy Đáp, Lương Định Của, Đào Thế Tuấn, Vũ Tuyên Hoàng, Nguyễn Xiển, Lê Duy Thước, Phạm Khắc Mai, Thái Văn Trừng (nông nghiệp), Tạ Quang Bửu (giáo dục), Trần Đại Nghĩa (kỹ thuật quân sự), Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy (toán học), Đào Văn Tiến (sinh học), Nguyễn Hoàng Phương, Nguyễn Văn Hiệu (vật lý)… Cho tới tận bây giờ, những đóng góp của họ với khoa học cũng như đóng góp của khoa học với đất nước đều được ghi nhận và bản thân họ đều trở thành những hình mẫu lý tưởng cho các nhà khoa học thế hệ sau.
Cần nhiều hơn một chính sách
Vấn đề này có thể khiến nhiều người băn khoăn bởi chưa bao giờ, khoa học Việt Nam lại được nhắc đến như một giải pháp mang tính đột phá cho sự phát triển của đất nước và được đón nhận nhiều chính sách mới nhằm thúc đẩy sự phát triển của khoa học như hiện nay, với Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 03 của Chính phủ, Nghị quyết 193 của Quốc hội… Mới đây, thủ tướng Phạm Minh Chính cũng nêu rõ, chính phủ dự kiến sẽ dành khoảng gần 10.000 tỉ đồng từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi để đáp ứng yêu cầu bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách năm nay cho KH&CN. Khi nhận được sự quan tâm và gửi gắm niềm tin như vậy, khoa học Việt Nam có thực sự vươn lên một nấc phát triển mới, tạo ra nhiều kết quả mang tính đột phá, đóng góp trực tiếp vào nền kinh tế đất nước, và có được những “tổng công trình sư” có thể sánh được với các bậc tiền bối?
Xã viên xã An Vinh (Quỳnh Phụ) thu hoạch lúa xuân năm 1971. Ảnh: Tư liệu
Thực ra, không chỉ có nền khoa học còn ở mức khiêm tốn như Việt Nam mới băn khoăn về việc vì sao chưa có kết quả đột phá mà các nhà khoa học quốc tế cũng canh cánh câu hỏi đó. Năm 2023, một nhóm các nhà khoa học Mỹ đã thử đi tìm câu trả lời và phát hiện ra có sự sụt giảm đều đặn các kỳ tích khoa học kể từ năm 1945. Bất chấp việc có những loại vaccine thần kì, điện thoại thông minh, tên lửa có thể tái sử dụng nhưng tốc độ của những đột phá thực sự đã suy giảm. Theo công bố của họ trên Nature, khi phân tích dữ liệu từ 45 triệu bài báo và 3,9 triệu bằng sáng chế ở các lĩnh vực khoa học sự sống và y sinh, vật lý, công nghệ và khoa học xã hội trong vòng sáu thập kỷ, họ đã phát hiện ra các nhà khoa học ngày nay thường tiến lên từng bước hơn là tạo ra bước nhảy vọt. Và thành tích của họ thường ít được biết đến. Ví dụ, vaccine mRNA, đột phá được ngợi ca hàng đầu, là sự tích lũy nghiên cứu kéo dài trong hàng thập kỷ, hay quan sát sóng hấp dẫn vào năm 2015 không phải là đột phá mới mẻ mà là sự xác nhận của một lý thuyết có tuổi đời một thế kỷ và cũng đòi hỏi nhiều thập niên nghiên cứu cật lực, thử nghiệm và phát triển các cảm biến siêu nhạy. Đó là những chiến thắng của khoa học thông thường hơn là bước nhảy vọt.
Trong khi đó, việc các nhà nghiên cứu ĐH Columbia tạo ra một kỹ thuật cắt nối gene tiên tiến (gene-splicing) mang tính đột phá vào những năm 1980 lại ít được công chúng biết đến, dẫu kỹ thuật sinh học phân tử này có thể thao tác DNA bằng cách cắt và nối đoạn, cho phép đưa đoạn gene mới vào hệ gene của một sinh vật, đem lại cho họ khoảng một tỉ USD từ phí li xăng trên khắp thế giới.
Phát hiện này có ý nghĩa gì với khoa học? Nhóm tác giả bài báo trên Nature cho rằng, việc hiểu rõ hơn về sự suy giảm những kết quả khoa học mang tính đột phá khiến phải suy nghĩ lại các cách tổ chức lại các hoạt động KH&CN trong tương lai. Những giải pháp quan trọng là cần tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu đọc nhiều và có nhiều thời gian để bám sát những đường biên giới mới của kiến thức. Các trường viện nên thay vì tập trung vào số lượng, nên khuyến khích chất lượng nghiên cứu, thúc đẩy hợp tác liên ngành với những quy định cụ thể. Các cơ quan tài trợ nên hướng đến các chương trình tài trợ với những khoản đầu tư hào phóng, dài hạn, chấp nhận rủi ro hơn để hỗ trợ sự nghiệp nghiên cứu, giúp các nhà khoa học có thời gian khám phá những điều nằm ngoài đường biên đã được xác định, và qua đó có thể tạo ra được công trình thực sự xuất sắc.
Câu chuyện về xu hướng khoa học của thế giới và gợi ý chính sách về nó đem lại rất nhiều suy nghĩ về sự phát triển của khoa học Việt Nam và những cách tiếp cận mới trong chính sách để có thể thúc đẩy hơn nữa sự phát triển này. Rõ ràng, bối cảnh xã hội mới và xu hướng nội tại của ngành KH&CN khiến cho những chính sách trước đây rõ ràng không phù hợp để thúc đẩy sự phát triển. Những khuyến nghị chính sách của các nhà khoa học Mỹ cũng chính là những chính sách mơ ước của khoa học Việt Nam bởi khoa học Việt Nam đang cần những chính sách mới khuyến khích hợp tác liên ngành, loại bỏ các thủ tục hành chính, loại bỏ các khung kiểm soát tài chính khoa học quá chặt chẽ và sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Tuy những tinh thần này đã được đề cập đến trong ba nghị quyết quan trọng nhưng cần thiết sớm hiện thực hóa tinh thần của các nghị quyết này trong những văn bản hướng dẫn cụ thể.
Mặt khác, có một vấn đề tồn tại là các hoạt động KH&CN dường như quá xa cách với công chúng và đôi khi, xã hội có cái nhìn chưa hẳn đúng về khoa học và nhà khoa học. Đó là lý do mà giờ đây, không ít nhà khoa học Việt Nam xuất sắc lại chưa được xã hội biết đến hoặc được đánh giá đúng đóng góp của họ. Vậy có cách nào hóa giải vấn đề này? PGS. Nguyễn Văn Huy cho rằng, “cần phải có những nghiên cứu và trình bày về khoa học cho xã hội thấy và tin tưởng vào giá trị của khoa học, dù trong xã hội cũng như trong khoa học vẫn tồn tại cái thực và cái giả”. Đó cũng là cái cách ông và cộng sự ở Bảo tàng Dân tộc học cách đây gần hai thập niên thực hiện cuộc trưng bày về cuộc sống xã hội thời bao cấp. Không chỉ làm sống lại ký ức, kỷ niệm vui buồn, cuộc trưng bày đã làm hồi sinh những giá trị tích cực về thời bao cấp, chắt lọc nó để hình thành những gợi ý thiết kế, ý tưởng kinh doanh thành công, nghĩa là đi vào đời sống hiện đại một cách thành công mà không làm dấy lên những xúc cảm tiêu cực.
Việc chủ động tiếp cận công chúng và trao thêm nhiều thông tin cho họ cũng sẽ là cách để họ hiểu khoa học, tránh những trường hợp như đã xảy ra với các nhà nghiên cứu ĐH Columbia, khi tạo ra đột phá nhưng lại không được biết đến. “Những câu chuyện làm khoa học, vượt khó và thành công của các nhà khoa học, sẽ tạo động lực cho các thế hệ sau, nhất là các thế hệ học sinh, sinh viên, nhà nghiên cứu trẻ bước vào sự nghiệp khoa học, hoặc đi vào cuộc sống mà khoa học là động lực cho sự phát triển”, theo PGS. Nguyễn Văn Huy và TS. Nguyễn Thanh Hóa.
“Xã hội hiện tại đã có một số cách tôn vinh khoa học, ghi nhận khoa học và nhiều giải thưởng khoa học tư nhân cũng đã xuất hiện”, PGS. Nguyễn Văn Huy nhận xét. Những điểm tích cực này cho thấy, xã hội sẽ sẵn sàng tri ân khoa học, khi nhận thấy khoa học thực sự đóng góp nhiều cho đất nước và cho xã hội.
Có lẽ, cần rất nhiều thời gian để những gì khoa học thụ hưởng từ chính sách đầu tư cho khoa học đúng hướng trở thành kết quả đầu ra có thể đong đếm, có nhiều đóng góp cho đất nước thì xã hội sẽ ghi nhận một cách hào phóng những đứa con xuất sắc của mình.
Theo khoahocphattrien.vn