Việc chuyển từ cách thức quản lý sản phẩm, hàng hóa theo nhóm một cách cứng nhắc sang quản lý theo mức độ rủi ro và tăng cường hậu kiểm được kỳ vọng sẽ giúp người tiêu dùng tránh được các sản phẩm không an toàn, đồng thời tháo gỡ các vướng mắc đã tồn tại từ lâu cho doanh nghiệp.
Vụ bê bối sửa giả vừa qua khiến người tiêu dùng hoang mang về chất lượng sản phẩm trên thị trường. Ảnh: medinet.gov.vn
Sau một thời gian dài thảo luận, ngày 18/6/2025, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, với 408/420 đại biểu tán thành. Luật mới được thông qua đã sửa đổi 29 điều, bổ sung 14 điều mới, bãi bỏ 34 điều cùng 3 khoản trong Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007.
Điểm đáng chú ý là trong lần sửa đổi này, Luật đã chuyển từ việc chia nhóm sản phẩm hàng hóa một cách hành chính (nhóm 1, nhóm 2) sang phân loại sản phẩm theo ba mức độ rủi ro - thấp, trung bình, cao - để quản lý theo hướng ít tiền kiểm và tăng cường hậu kiểm. Đây chính là điều mà đại diện nhiều doanh nghiệp đã đề xuất và kỳ vọng từ rất lâu.
Bài toán từ thực tiễn
Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã từng góp ý, Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm theo nguyên tắc quản lý rủi ro, trong đó nên xác định mức độ nguy hiểm của sản phẩm, đánh giá lịch sử cam kết và hành động của doanh nghiệp, và xem xét các cảnh báo từ quốc tế.
Tuy nhiên, cho đến trước lần sửa đổi Luật này, “danh mục hàng hóa nhóm 2” vẫn luôn là một chủ đề được thảo luận rất nhiều và gây “đau đầu” cho nhiều doanh nghiệp. Đây là danh mục các sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn, được quản lý theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, nhằm bảo vệ sức khỏe, sự an toàn cho người tiêu dùng, động vật, thực vật, tài sản, môi trường. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, cách hiểu và việc xác định sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 của các bộ quản lý ngành, lĩnh vực chưa được quy định cụ thể trong Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá trước đây nên đã dẫn đến tình trạng, thiếu thống nhất và gây ra rất nhiều bất cập trong thực tế. Một ví dụ tiêu biểu là việc danh mục sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 được ban hành nhưng chưa có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) để quản lý, hoặc việc ban hành danh mục có tên nhóm hàng hóa nhưng chưa có đầy đủ chi tiết mặt hàng và mã số HS (HS Code),...
Không chỉ vậy, nhiều sản phẩm, hàng hóa được đưa vào danh mục sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 nhưng lại không rõ cơ sở khoa học về khả năng gây mất an toàn. “Điều này dẫn đến những vướng mắc đối với tổ chức, doanh nghiệp khi thực hiện các biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo luật định. Bên cạnh đó, việc ban hành danh mục sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 theo cách thức quản lý riêng cũng dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện”, ban soạn thảo dự thảo luật sửa đổi phân tích.
Khi nhìn ra thế giới, không có quốc gia nào đưa ra định nghĩa cụ thể về sản phẩm nhóm 2. Theo ông Nguyễn Hồng Uy - Trưởng nhóm Kỹ thuật Tiểu ban Thực phẩm và Dinh dưỡng, Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (Eurocham), chỉ có Mỹ và EU có quy định tương tự, nhưng họ chỉ giới hạn trong 9 loại, bao gồm chất nổ, khí nén, chất lỏng dễ cháy, chất rắn dễ cháy, các chất phóng xạ… Trong khi đó, tại Việt Nam, các mặt hàng như gạo, ngô, khoai, sắn… lại cũng được được vào danh mục này do lo ngại việc bảo quản không hợp lý có thể gây chất độc - trong khi đó đây là vấn đề nằm ở việc bảo quản chứ không nằm ở bản chất tiềm ẩn nguy hại của sản phẩm - từ đó dẫn đến những rắc rối không cần thiết cho cả doanh nghiệp cũng như không mang lại hiệu quả đảm bảo chất lượng sản phẩm cho người tiêu dùng.
Phân tích thêm về cách quản lý rủi ro, ông Uy cho rằng, việc phân loại hàng hóa thành hai nhóm - nhóm 1 (không có rủi ro) và nhóm 2 (có rủi ro, phải công bố hợp quy, kiểm tra nhà nước khi nhập khẩu) cũng không phù hợp với thế giới vì thực tế không có sản phẩm nào là hoàn toàn không có rủi ro. “Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) chia hàng hóa ra làm ba loại: rủi ro thấp, trung bình, cao. Nếu chúng ta kiểm tra chất lượng hàng hóa không theo quản lý rủi ro thì sẽ vừa thiếu hiệu quả, vừa gây lãng phí lớn”, ông Uy cho biết tại hội thảo của Liên đoàn Thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI) vào tháng tư. Do đó, ông đề xuất bỏ phân loại nhóm 1 và 2 mà phân loại theo phương pháp của ISO để từ đó xác định tần suất hậu kiểm cho sản phẩm, chẳng hạn như các mặt hàng có rủi ro cao và dễ bị sử dụng không đúng mục đích như thuốc, vũ khí, vật liệu nổ thì sẽ cần phải đăng ký.
Đáp ứng kỳ vọng
Những vướng mắc mà các doanh nghiệp phản ánh trong thời gian vừa qua đã phần nào được giải quyết trong Luật sửa đổi, với việc phân cấp mức độ rủi ro của sản phẩm. Theo Luật mới, sản phẩm, hàng hóa không còn được phân vào hai nhóm 1 và 2 như trước đây mà được phân loại dựa trên mức độ rủi ro, phù hợp thông lệ quốc tế; cảnh báo của tổ chức quốc tế có liên quan đối với sản phẩm, hàng hóa; khả năng quản lý của cơ quan nhà nước trong từng thời kỳ.
“Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa được thực hiện theo nguyên tắc quản lý rủi ro, tăng cường kiểm tra sau lưu thông trên thị trường có trọng điểm, dựa trên phân tích dữ liệu, truy xuất nguồn gốc và thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường chất lượng. Khuyến khích áp dụng công nghệ số và các hệ thống thông minh trong lựa chọn đối tượng, phương thức kiểm tra”, theo Luật sửa đổi.
Trong đó, sản phẩm, hàng hóa được phân thành ba loại: mức độ rủi ro thấp, mức độ rủi ro trung bình, và mức độ rủi ro cao. Tiêu chí đánh giá rủi ro bao gồm mức độ tác động đến sức khỏe, môi trường, khả năng kiểm soát chuỗi cung ứng và cảnh báo từ tổ chức quốc tế. Theo đó, đối với sản phẩm, hàng hóa có mức độ rủi ro thấp, tổ chức, cá nhân chỉ cần tự công bố tiêu chuẩn áp dụng. Sản phẩm, hàng hóa nào có mức độ rủi ro trung bình thì sẽ cần tự công bố tiêu chuẩn áp dụng; tự đánh giá hoặc do tổ chức chứng nhận được công nhận thực hiện chứng nhận phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Đối với sản phẩm, hàng hóa có mức độ rủi ro cao, các tổ chức, cá nhân sẽ cần thực hiện nhiều bước hơn, bao gồm: tự công bố tiêu chuẩn áp dụng và được tổ chức chứng nhận được chỉ định thực hiện chứng nhận phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Bên cạnh đó, sản phẩm, hàng hóa có mức độ rủi ro trung bình, mức độ rủi ro cao phải được quản lý theo danh mục gắn với yêu cầu quản lý chất lượng tương ứng, trong đó xác định rõ sản phẩm, hàng hóa được áp dụng biện pháp quản lý khác theo quy định của luật có liên quan. Đối với sản phẩm, hàng hóa có mức độ rủi ro cao, Luật mới quy định bắt buộc phải tiến hành truy xuất nguồn gốc, trong đó, Bộ, cơ quan ngang Bộ xác định và có lộ trình thực hiện, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với năng lực của doanh nghiệp và đặc thù phát triển của từng ngành hàng.
“Việc quản lý chất lượng sản phẩm theo nguyên tắc quản lý rủi ro là những hoạt động mà các nước tiên tiến đang ứng dụng, và thực tế chúng ta cũng đã làm thành công trong Nghị định 15/2018, một phương thức quản lý rủi ro hiệu quả và văn minh”, ông Nguyễn Hoài Nam - Phó tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam - từng chia sẻ tại hội thảo do Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường phối hợp với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức đầu tháng ba.
Theo khoahocphattrien.vn