Trong bối cảnh Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, dự luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ....đã được sửa đổi và được Quốc hội thông qua chỉ sau vài tháng nhằm kịp thời tháo gỡ những nút thắt trong quản lý khoa học và đổi mới sáng tạo.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được xây dựng và kế thừa những nền tảng mà Luật khoa học và công nghệ năm 2000 và Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 thiết lập lên. Những nền tảng đó đã từng bước chuyển hướng nền khoa học Việt Nam từ quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa sang quản lý theo cơ chế quỹ, cơ chế đặt hàng nhiệm vụ, cơ chế khoán chi… Những đổi mới đó đã đem đến một diện mạo mới cho nền khoa học nước nhà với những bước phát triển từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội, khoa học cơ bản đến khoa học ứng dụng, từ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đến thực tiễn đời sống.
Tuy nhiên, sự tồn tại của rất nhiều vấn đề trong quá trình thực thi pháp luật ở Việt Nam, đặc biệt sự chồng chéo trong quy định ở các luật khác như Luật Ngân sách, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật quản lý, sử dụng tài sản công Tài sản công…, đã khiến cho Luật Khoa học và công nghệ 2013 không phát huy được những ưu điểm đổi mới trong quan điểm đầu tư cho khoa học và đưa sản phẩm công nghệ ra đến thị trường. Các nhà khoa học, một mặt không đủ điều kiện để tạo ra những sản phẩm nghiên cứu mang tính đột phá, mặt khác không có cách nào chuyển giao sản phẩm của mình cho doanh nghiệp, trong khi các doanh nghiệp lại rất cần những công nghệ mới để tăng sức cạnh tranh trên thị trường nội.
Hơn một thập niên trôi qua, khoa học quốc tế cũng có những thay đổi chóng mặt. Nhiều công nghệ mới như công nghệ nano, AI, blockchain, robotics, công nghệ sinh học, công nghệ in 3D… đã ngày một trở thành những công cụ quyền lực làm thay đổi nền kinh tế nhiều quốc gia, đem lại những sức mạnh mới cho các quốc gia.
Để chuyển hướng dòng vốn mạnh mẽ hơn vào hoạt động nghiên cứu thì việc thiết lập lại các tiêu chuẩn về xây dựng, phê duyệt và cấp kinh phí, đồng thời trao quyền tự chủ tài chính và chuyên môn cho các đơn vị nghiên cứu, kèm theo cơ chế giám sát minh bạch, được xem là giải pháp quan trọng.
|
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68 đã được xây dựng nhằm trao thêm cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo những cơ hội mới, những đột phá có thể đóng góp nhiều hơn cho một đất nước đã khai thác gần hết các động lực tăng trưởng cũ như vốn và lao động giá rẻ, và cần một cú hích mới từ khoa học-công nghệ để vượt bẫy thu nhập trung bình, hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2030–2045.
Vì vậy, Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được xây dựng nhằm tạo động lực mới cho nền khoa học nước nhà, trong đó nhấn mạnh việc đưa đổi mới sáng tạo trở thành trụ cột bên cạnh khoa học-công nghệ, và thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn để phát triển kinh tế.
Trong buổi đối thoại chính sách giữa các cơ quan trong Bộ KH&CN với các trường đại học và doanh nghiệp vào tuần trước, bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp - nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, hiện là Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên (Bộ KH&CN) - cho biết một số quan điểm nổi bật của Luật lần này là: (i) đổi mới tư duy từ quản lý theo quá trình sang quản lý theo hiệu quả; (ii) đơn giản hóa quy trình, thủ tục cho hoạt động nghiên cứu khoa học; (iii) và lấy thị trường, định hướng sản phẩm làm động lực cho phát triển công nghệ và xác định các bài toán nghiên cứu liên quan.
Cởi trói cho các nhà khoa học
Điều này được hiện thực hóa bằng các quy định rõ ràng. Chẳng hạn, với Luật mới, các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sẽ được miễn trừ trách nhiệm hành chính, dân sự đối với các thiệt hại gây ra cho nhà nước. Họ cũng không phải hoàn trả kinh phí nghiên cứu nếu đã thực hiện đúng quy định, biện pháp phòng ngừa rủi ro nhưng kết quả không như mong muốn.
Đây chính là nỗi trăn trở của nhiều nhà khoa học từng tham gia các dự án có nhận tài trợ một phần hoặc tất cả từ nhà nước. Các nhà khoa học hiểu rằng nghiên cứu nghĩa là dấn thân vào miền đất chưa ai khai phá, đối mặt với vô số câu hỏi chưa có lời giải, và những dự đoán hay mục tiêu ban đầu hoàn toàn có thể chệch hướng. Thế nhưng, cơ chế “không chấp nhận rủi ro” lại khiến họ phải “chơi” an toàn để tránh bị trừng phạt nếu thất bại. Hệ quả, họ chỉ có thể đề xuất những nhiệm vụ nghiên cứu “chắc ăn, đã biết trước kết quả, ít khả năng gây lãng phí ngân sách”. Quy định mới về chấp nhận rủi ro sẽ cho phép các nhà khoa học mạnh dạn thử nghiệm ý tưởng mới, đặt ra những câu hỏi táo bạo mà câu trả lời, dù xác suất thành công nhỏ, vẫn có thể tạo ra bước ngoặt trong tư duy và công nghệ.
Tương tự, Luật mới cũng mở đường cho các cơ chế tài chính “khoán chi theo kết quả cuối cùng” và “phân bổ kinh phí theo hiệu quả đầu ra” cho các nhiệm vụ hoặc chương trình khoa học. Miễn là nhà khoa học đạt được các cột mốc quan trọng đã cam kết, họ sẽ không còn bị giám sát chi li từng bước như trước. Nói cách khác, họ có thể linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh cách làm, phân bổ nguồn lực, thêm bớt các thành viên hoặc đối tác nghiên cứu. Các trưởng nhóm nghiên cứu sẽ không phải mất thời gian để giải trình các giấy tờ hành chính “vì sao chúng tôi thay đổi như vậy?” (ước tính có thể lên tới 20-40% quỹ thời gian của nhà nghiên cứu!!) mà có thể dồn năng lượng vào hoạt động chuyên môn.
Ở cấp độ quốc gia, cách phân bổ ngân sách theo hình thức “khoán chi” cũng sẽ tạo ra một số thay đổi đáng kể trong cách thức vận hành bộ máy khoa học. Thay vì lên kế hoạch tài trợ cố định rồi giải ngân nhỏ giọt, các chương trình khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giờ có thể được giao một khoản kinh phí lớn để chi tiêu linh hoạt và chủ động mở các đợt gọi đề tài nghiên cứu thường xuyên hơn, thậm chí là mỗi năm vài lần.
Trước đây, việc đề xuất nghiên cứu rất phức tạp và mất nhiều thời gian. Chẳng hạn, các đề tài thường phải được đề xuất từ năm 2024–2025 để tổng hợp thành danh sách gửi Bộ Tài chính, rồi trình Quốc hội phê duyệt ngân sách khoa học cho năm 2026. Hệ quả là khi kinh phí xuống tới tay nhà nghiên cứu, nhiều hướng nghiên cứu có thể đã lỗi thời. Bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp cho rằng cách phân bổ ngân sách mới sẽ giúp hệ thống tài trợ cho khoa học hiệu quả hơn và rút ngắn thời gian bắt kịp thực tiễn.
Nó cũng sẽ góp phần giải quyết vấn đề bế tắc mà Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng đã từng đề cập tại Hội nghị sơ kết công tác sáu tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ sáu tháng cuối năm 2025 của Bộ KH&CN tuần trước. Theo Bộ trưởng, trong khoản ngân sách bổ sung trị giá 25.000 tỷ đồng để chi cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong năm nay thì “đa số các dự án của các bộ, ngành và địa phương gửi về có 80% là để xây nhà, mua máy móc, chỉ 20% là đề xuất làm nghiên cứu”. Rõ ràng, để chuyển hướng dòng vốn mạnh mẽ hơn vào hoạt động nghiên cứu thì việc thiết lập lại các tiêu chuẩn về xây dựng, phê duyệt và cấp kinh phí, đồng thời trao quyền tự chủ tài chính và chuyên môn cho các đơn vị nghiên cứu, kèm theo cơ chế giám sát minh bạch, được xem là giải pháp quan trọng.
Một nút thắt khác mà Luật mới tháo gỡ là vấn đề chuyển giao quyền sở hữu các kết quả nghiên cứu do ngân sách nhà nước tài trợ. Trước đây, quyền này thuộc về cơ quan quản lý ngân sách (ví dụ: Bộ KH&CN), còn nay sẽ tự động thuộc về đơn vị thực hiện nghiên cứu, như các trường đại học. Vì kết quả nghiên cứu sẽ không còn bị xếp vào danh mục ‘tài sản công’, các trường giờ đây được toàn quyền sở hữu, sử dụng và định giá mà không bị ràng buộc bởi các quy định khắt khe về ‘bảo toàn vốn nhà nước’. Nhờ đó, họ có thể tự quyết định cách khai thác kết quả của mình mà không bị can thiệp từ bên ngoài.
Các nhà nghiên cứu theo đó cũng sẽ được hưởng tối thiểu 30% thu nhập và cổ phần khi trường đại học thương mại hóa kết quả nghiên cứu của họ, đồng thời được miễn hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân với khoản thu nhập này. Thậm chí, Luật mới còn cho phép họ đứng ra làm chủ, tham gia điều hành (ở các vị trí CEO, CTO, COO, v.v.) hoặc làm việc định kỳ tại doanh nghiệp do trường đại học thành lập hoặc góp vốn - điều mà các luật trước từng cấm đoán vì lo ngại xung đột lợi ích.
Như đã phân tích trong bài viết ‘Đánh thức những IP ngủ yên’ đăng trên Khoa học & Phát triển hồi đầu tháng sáu, những thay đổi trong tư duy chính sách lần này phản ánh nỗ lực thực sự của Việt Nam trong việc đứng về phía nhà nghiên cứu: từ chỗ xem họ là người làm thuê trong hệ thống, sang nhìn nhận họ như những chủ thể sáng tạo cần được cân bằng lợi ích và khuyến khích phát triển bằng những chính sách rõ ràng.
Kỳ vọng hành động cụ thể
Tại buổi hội thảo đối thoại chính sách, TS. Nguyễn Tú Anh, Đại học VinUni, lưu ý rằng Luật mới chỉ đưa ra khung quy định chung, để đi vào thực tế vẫn cần các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư hướng dẫn. Tuy nhiên, để những hướng dẫn này thực sự hiệu quả, điều quan trọng là phải làm rõ các quy trình. Chẳng hạn, các khái niệm như “chấp nhận rủi ro” hay “miễn trừ trách nhiệm” tuy là quan điểm tiến bộ, nhưng nếu không được quy định tường minh thì dễ trở thành một cái bẫy. Theo quan điểm của ông, trong thực tế “người làm nghiên cứu thật thì nhiều nhưng kẻ gian cũng không ít”, nên một quy định rõ ràng để bảo vệ người làm đúng và ngăn chặn kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng là điều cực kỳ quan trọng.
Trong khi đó, ông Nguyễn Trung Dũng, Giám đốc điều hành BK Holdings - một trong những doanh nghiệp đầu tiên ở Việt Nam thuộc sở hữu của trường đại học - bày tỏ sự phấn khởi vì các quy định mới đã tháo gỡ những rào cản hành chính mà họ phải ‘vượt rào’ trong suốt 17 năm qua để duy trì và chứng minh tính hiệu quả của mô hình doanh nghiệp này. “Giảng viên làm CEO, hay dùng tài sản công để góp vốn cho startup - đó là điều BK Holdings từng làm, nhưng từng là chuyện không tưởng với nhiều đơn vị khác trong bối cảnh luật cũ. Giờ đây mọi chuyện đã dễ dàng hơn”, ông Dũng nhận xét.
Tuy nhiên, điều mà BK Holdings hướng tới xa hơn trong mô hình thương mại hóa là sự hậu thuẫn của Nhà nước về vốn mạo hiểm. Dẫn kinh nghiệm của Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc) - nơi ngay từ khi hình thành công ty Tsinghua Holdings để quản lý tài sản nội bộ và chuyển giao công nghệ từ trường ra doanh nghiệp - đã được tiếp cận nguồn vốn lên tới 400 triệu USD để đầu tư cho các dự án nghiên cứu và các spin-off tài năng, ông Nghiêm Trung Dũng cho rằng Việt Nam cũng cần đẩy mạnh các cơ chế tài chính chấp nhận rủi ro tương tự.
Thực tế, sau nhiều năm vận động, cơ chế chấp nhận rủi ro này lần đầu tiên đã được đưa vào Luật hồi tháng Sáu, trong điều khoản về Quỹ đầu tư mạo hiểm quốc gia và các quỹ đầu tư mạo hiểm cấp địa phương. Tuy nhiên, để các quỹ này thực sự vận hành được, Chính phủ cần làm rõ các quy định chi tiết cho hợp với logic thực tiễn. Logic ở đây là: nếu khu vực công đã quyết định hỗ trợ hoặc ươm tạo startup, đặc biệt là những doanh nghiệp khởi nghiệp dựa trên nền tảng khoa học-công nghệ, thì cũng nên sẵn sàng rót ‘vốn mồi’ để đồng hành ở những giai đoạn khó khăn, rủi ro nhất của chúng.
Dự kiến, Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ chính thức có hiệu lực từ tháng 10 năm nay. Hiện các văn bản hướng dẫn dưới luật đang được Bộ KH&CN gấp rút hoàn thiện.
Theo khoahocphattrien.vn