Quản trị dữ liệu và tài liệu lưu trữ trong phát triển chính phủ số: Bài toán không dễ giải
Việc xây dựng và phát triển chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số là một trong những nội dung trọng tâm trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030.
Tuy nhiên, con đường để đạt được mục tiêu này đối mặt với không ít thách thức,nhất là khi dữ liệu hiện nay vẫn còn đang phân tán, thiếu chuẩn hóa, bảo mật kém, đồng thời vẫn Việt Nam vẫn còn thiếu nhân lực có kỹ năng về quản trị dữ liệu.
Nhiều thách thức
Chính phủ điện tử được coi là công cụ hữu hiệu để nâng cao hiệu quả, minh bạch và thuận tiện trong hoạt động của bộ máy hành chính cũng như cung cấp dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp. Việt Nam bắt đầu lộ trình chính phủ điện tử từ đầu những năm 2000, nhưng thực sự tăng tốc trong khoảng 5 năm trở lại đây, nhất là sau khi ban hành Nghị quyết 17/NQ-CP năm 2019 về một số nhiệm vụ phát triển chính phủ điện tử và Chương trình chuyển đổi số quốc gia năm 2020. Theo báo cáo Quốc gia “Cải cách hành chính ở Việt Nam” mới được công bố gần đây, Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực: theo xếp hạng Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI) của Liên Hợp Quốc, năm 2022 Việt Nam đạt 0,6799 điểm (nhóm cao) và đứng thứ 86/193 quốc gia; đến năm 2024, Việt Nam tăng 15 bậc lên hạng 71/193 với EGDI = 0,7709, lần đầu thuộc nhóm rất cao. Việt Nam cũng vươn lên đứng thứ 5 trong ASEAN về chính phủ điện tử, chỉ sau Singapore, Malaysia, Thái Lan, Brunei.
“Sự cải thiện thứ hạng này phản ánh những đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng số và dịch vụ công trực tuyến mà Việt Nam đã thực hiện, ví dụ như phủ sóng cáp quang, 4G đến hầu hết xã phường; xây dựng Trục liên thông văn bản quốc gia; khai trương Cổng Dịch vụ công quốc gia năm 2019; phát triển các cơ sở dữ liệu quốc gia (về dân cư, đất đai, bảo hiểm...) và hệ thống định danh, xác thực điện tử”, PGS. TS Đỗ Hương Lan - Viện trưởng Viện Chính sách, Đổi mới và Khoa học Liên ngành và TS. Trịnh Ngọc Thạch (trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) chỉ ra trong báo cáo. Tính đến cuối 2024, 100% bộ, ngành và địa phương đã có Cổng dịch vụ công và Hệ thống một cửa điện tử, tỷ lệ thủ tục hành chính đủ điều kiện được cung cấp trực tuyến mức độ 4 đạt khoảng 97%. Một số dịch vụ công trực tuyến có lượng hồ sơ nộp lớn như: đóng bảo hiểm xã hội, cấp căn cước công dân gắn chip, đăng ký xe, chứng tỏ người dân đã dần quen với tương tác số.
Song, dù đạt được tiến bộ, vẫn còn không ít thách thức trong triển khai chính phủ điện/dịch vụ số. Trước hết phải kể đến tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn thấp so với tiềm năng. Theo kết quả PAPI 2023, mặc dù gần 80% số người dân được hỏi có kết nối Internet tại nhà, nhưng chỉ khoảng 8,3% đã sử dụng Cổng Dịch vụ công quốc gia và 7,6% dùng Cổng dịch vụ công cấp tỉnh. Con số này khá khiêm tốn, cho thấy phần lớn người dân vẫn làm thủ tục theo cách truyền thống trực tiếp tại công sở. Theo PGS. TS Đỗ Hương Lan và TS. Trịnh Ngọc Thạch, lý do có thể do một bộ phận dân cư (nhất là người cao tuổi, nông thôn) chưa quen hoặc chưa tin tưởng vào giao dịch điện tử; hoặc do chất lượng dịch vụ công trực tuyến chưa cao (giao diện khó dùng, hay lỗi, hồ sơ nộp online nhưng vẫn phải in giấy nộp bản cứng). Đây là bài toán kinh tế – xã hội: cần thời gian và giáo dục để thay đổi thói quen, cũng như cần hoàn thiện hệ thống kỹ thuật để trải nghiệm người dùng tốt hơn.
Thách thức tiếp theo là chênh lệch số và an ninh mạng. Việt Nam có khoảng 70% dân số dùng smartphone, nhưng vẫn còn vùng sâu vùng xa khả năng tiếp cận Internet hạn chế. Chênh lệch về kỹ năng số giữa các nhóm dân cư (giới tính, dân tộc, thành thị-nông thôn) cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận chính phủ điện tử. Nếu không có biện pháp hỗ trợ, nguy cơ “bỏ lại phía sau” một bộ phận dân cư trong tiến trình chuyển đổi số là hiện hữu. Bên cạnh đó, khi ngày càng nhiều dữ liệu và dịch vụ chuyển lên môi trường mạng, vấn đề bảo mật, an toàn thông tin trở nên sống còn. “Đã có những sự cố lộ lọt dữ liệu cá nhân từ các nền tảng dịch vụ công, hoặc website chính phủ bị tấn công (dù mức độ chưa nghiêm trọng). Chính phủ cần đầu tư mạnh cho an ninh mạng và hoàn thiện hành lang pháp lý (như Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân 2023) để vừa phát triển chính phủ điện tử, vừa bảo đảm an toàn cho hệ thống và người dùng”, các tác giả chỉ ra.
Một thách thức nữa mang tính nội tại là tính kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành còn chưa thông suốt. Hiện đã có 6 cơ sở dữ liệu quốc gia lớn, nhưng việc liên thông chúng để tự động hóa quy trình xử lý vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Tình trạng mỗi cơ quan xây dựng một phần mềm riêng lẻ, thiếu liên thông vẫn tồn tại (hay gọi là “cát cứ dữ liệu”). Điều này làm giảm hiệu quả của chính phủ điện tử, vì mục tiêu cuối cùng là “một cửa liên thông điện tử” - người dân chỉ cần nhập thông tin một lần, hệ thống tự xử lý liên ngành.
Theo các nhà nghiên cứu, một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và đảm bảo việc chuyển đổi số đạt được sự phát triển nhanh chóng, bền vững theo đúng mục tiêu và sự kỳ vọng là xây dựng và quản trị dữ liệu số. Chính điều đó đòi hỏi mỗi cơ quan quan, tổ chức doanh nghiệp, địa phương đều tập trung xây dựng và quản trị khai thác, phát triển dữ liệu số của mình. Tuy nhiên, việc xây dựng, khai thác quản trị dữ liệu của Việt Nam hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập, thiếu thống nhất: từ phương thức tổ chức lưu trữ đến chuẩn kết nối, các giải pháp chia sẻ, bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu số,...
“Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành Luật Dữ liệu năm 2024, tuy nhiên chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết việc thực hiện Luật này, đặc biệt là các quy định về quản trị dữ liệu số. Các quy định pháp luật chủ yếu hiện nay đề cập đến việc xây dựng dữ liệu số, lưu trữ dữ liệu số trong khi đó các hoạt động khác của quản trị dữ liệu số như khai thác, sử dụng chưa được đề cập nhiều. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng chưa ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân để có thể sử dụng và quản lý dữ liệu được chặt chẽ, đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp”, TS. Trần Bá Hùng - trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG TPHCM) và ThS. Nguyễn Xuân Hải - Học viện Chính sách và Phát triển (Bộ Tài chính) chia sẻ tại hội thảo “Quản trị dữ liệu, tài liệu lưu trữ trong bối cảnh phát triển Chính phủ số ở Việt Nam” vừa diễn ra cuối tháng 7.
Giải pháp nào?
Trước những thực tế trên, một số chuyên gia cho rằng, giải pháp sẽ nằm ở việc thúc đẩy sử dụng nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP), buộc các bộ ngành phải kết nối vào nền tảng chung. Đây cũng là yêu cầu trong giai đoạn phát triển chính phủ số: chính phủ vận hành dựa trên dữ liệu và ra quyết định dựa trên phân tích dữ liệu.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý về dữ liệu số và quản trị dữ liệu số. Trong đó, cần sớm hoàn thiện dự thảo để ban hành chính thức nghị định hướng dẫn chi tiết Luật Dữ liệu năm 2024, đồng thời Bộ Công an cần ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết. Ngoài ra, Bộ Công an và các bộ, ngành khác cần ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật về dữ liệu số như cấu trúc, phân tầng dữ liệu số nói chung và dữ liệu số trong từng lĩnh vực nói riêng. Đồng thời, các cơ quan cũng cần ban hành các quy định về chế độ, chính sách trong xây dựng dữ liệu số. Bên cạnh đó, các cơ quan hành chính nhà nước cũng phải ban hành các quy chế về xây dựng và quản lý dữ liệu số, quy trình về xây dựng dữ liệu số, các biểu mẫu, hồ sơ phục vụ cho quá trình xây dựng dữ liệu số. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cần hoàn thiện quy định về bảo mật thông tin, dữ liệu nói chung và trong quản lý hành chính nhà nước nói riêng. “Để tránh tình trạng lộ, lọt dữ liệu cá nhân xảy ra khá phổ biến trên môi trường mạng mà chưa được xử lý vì thiếu quy định của pháp luật, cần sớm hoàn thiện Dự án Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và các văn bản hướng dẫn, trong đó cần có các chế tài chặt chẽ, nghiêm khắc, đủ mạnh, đủ sức răn đe để xử phạt hành chính, dân sự và hình sự đối với các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân”, theo TS. Trần Bá Hùng và ThS. Nguyễn Xuân Hải.
Việc tạo khung pháp lý và đảm bảo tính thống nhất về quản trị dữ liệu số cũng cần phải có hệ thống các quy định chặt chẽ, rõ ràng và thống nhất. Vì vậy, việc ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật là hết sức cần thiết. Các cơ quan nhà nước cần ban hành bộ tiêu chuẩn thống nhất về cấu trúc dữ liệu, định dạng, mã hóa thông tin hành chính áp dụng cho toàn quốc. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tích hợp, cho phép các đơn vị hành chính sau sáp nhập đồng bộ thông tin trên một nền tảng duy nhất. Để quá trình triển khai xây dựng và quản trị dữ liệu số được nhịp nhàng, Việt Nam cũng cần phải ban hành quy chế phối hợp giữa các đơn vị hành chính sau sáp nhập để đảm bảo chia sẻ và khai thác dữ liệu hiệu quả. Mặt khác, cần thiết lập trung tâm quản lý dữ liệu cấp tỉnh để điều phối các hoạt động liên quan đến dữ liệu trong toàn địa bàn. “Trong quá trình sắp xếp, các địa phương cần sớm tiến hành bàn giao dữ liệu để quản lý thống nhất. Trong đó, cần tiến hành rà soát, phân loại để xác định tỷ lệ dữ liệu giấy, tỷ lệ dữ liệu số. Đồng thời xác định các loại dữ liệu số đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, những dữ liệu chưa đáp ứng yêu cầu để có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp”, TS. Trần Bá Hùng và ThS. Nguyễn Xuân Hải đề xuất.
Tựu trung, chính phủ điện tử và chuyển đổi số vừa là thời cơ để Việt Nam “đi tắt đón đầu” trong cải cách hành chính, vừa là thách thức cần nỗ lực liên tục. “Kế hoạch đặt ra đến 2030 hình thành Chính phủ số hoàn thiện. Muốn vậy, ngoài đầu tư hạ tầng và công nghệ, điều quan trọng là phải chuyển đổi tư duy của đội ngũ cán bộ và người dân. Cán bộ phải thành thạo kỹ năng số, mạnh dạn đổi mới quy trình dựa trên công nghệ; người dân cần tin tưởng và tích cực sử dụng dịch vụ số. Nếu vượt qua trở ngại này, cải cách hành chính dựa trên chính phủ điện tử sẽ tạo bước nhảy vọt, đưa nền hành chính Việt Nam bắt kịp chuẩn mực quốc tế về tính hiệu quả và minh bạch”, PGS. TS Đỗ Hương Lan và TS. Trịnh Ngọc Thạch nhận định.
Theo khoahocphattrien.vn