Mặc dù Việt Nam đã có nhiều biện pháp nhằm kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn, nhưng hiệu quả thực thi còn hạn chế do chế tài xử phạt chưa đủ mạnh, công nghệ giám sát chưa phát triển để đáp ứng được nhu cầu và nhận thức cộng đồng chưa cao.
Nguy hiểm không kém ô nhiễm không khí
Ô nhiễm tiếng ồn đang nổi lên như một trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng tại Việt Nam, đặc biệt tại các đô thị lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và đô thị hóa, tiếng ồn từ giao thông, xây dựng, công nghiệp và các hoạt động sinh hoạt hàng ngày đang ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe cộng đồng cũng như chất lượng cuộc sống.
Theo kết quả nghiên cứu và đánh giá của Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường tại 12 đường và nút giao thông chính tại Hà Nội, tiếng ồn trung bình vào ban ngày là 77,8 đến 78,1 dBA, vượt mức cho phép từ 7,8 đến 8,1 dBA. Tiếng ồn tương đương trung bình vào ban đêm là 65,3-75,7 dBA (vượt từ 10-20 dBA). Tại thành phố Hồ Chí Minh, tình hình ô nhiễm tiếng ồn cũng diễn biến phức tạp. Trong tám tháng đầu năm 2023, Cổng thông tin 1022 của thành phố Hồ Chí Minh đã tiếp nhận 11.115 phản ánh về tiếng ồn, chủ yếu trong khung giờ từ 18h đến 22h và vào các ngày cuối tuần.
Báo cáo đánh giá tóm tắt chất lượng môi trường do ba Trung tâm Quan trắc môi trường miền Bắc, miền Trung và Tây Nguyên, miền Nam tiến hành thực hiện quan trắc môi trường định kỳ vào tháng 11/2024 cho thấy, tình trạng ô nhiễm tiếng ồn tại các khu vực trên cả nước đang có những diễn biến đáng chú ý. Miền Bắc ghi nhận tỷ lệ điểm đo vượt ngưỡng cao nhất, lên tới 55,9%, cho thấy mức độ ô nhiễm tiếng ồn tại đây đang ở mức báo động. Trong khi đó, miền Trung và Tây Nguyên có xu hướng giảm nhẹ so với các đợt khảo sát trước nhưng vẫn duy trì tỷ lệ vượt ngưỡng ở mức 48,5%, phản ánh vấn đề chưa được cải thiện đáng kể. Tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếng ồn tập trung cao tại các khu công nghiệp và các nút giao thông lớn. Đối với khu vực kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), tình trạng ô nhiễm tiếng ồn chủ yếu xảy ra tại các đô thị lớn, nơi tập trung đông dân cư và hoạt động kinh tế sôi động. “Những số liệu này không chỉ vượt xa tiêu chuẩn mà còn cho thấy nguy cơ tiềm tàng gây tổn thương thính giác và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tâm lý của người dân và người lao động”, TS. Nguyễn Chính Quang - Viện Khoa học liên ngành (trường Đại học Nguyễn Tất Thành) cho biết.
Trong khi đó, WHO xếp tiếng ồn là yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe chỉ sau bụi, với nhiều hệ lụy nghiêm trọng nếu tiếp xúc kéo dài. Tổ chức này khuyến cáo mức ồn ban đêm tại khu dân cư không vượt quá 40 dB để bảo vệ sức khỏe. Thực tế, tại các khu công nghiệp và công trình xây dựng, tiếng ồn thường xuyên vượt 85 dBA, khiến công nhân đối mặt nguy cơ cao mắc điếc nghề nghiệp. Ở Việt Nam, điếc nghề nghiệp là bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm phổ biến thứ hai sau bụi phổi – silic, với 250–500 ca mắc mới mỗi năm. Không chỉ gây tổn hại thính lực, tiếng ồn ban đêm từ giao thông, karaoke hay xây dựng còn làm rối loạn giấc ngủ. Một nghiên cứu tại Hải Phòng cho thấy gần 25% dân số gặp tình trạng này, dẫn đến suy giảm năng suất, nguy cơ trầm cảm, suy giảm miễn dịch. Tiếng ồn còn kích thích cơ thể tiết hormone stress như cortisol, catecholamin, khiến huyết áp và nhịp tim tăng, kéo dài có thể gây rối loạn tim mạch.
Một nghiên cứu mới công bố trên tạp chí Environment International của Viện Y học Môi trường (IMM), Viện Karolinska (Viện Karolinska), Thụy Điển cho thấy ô nhiễm không khí và tiếng ồn giao thông kết hợp có thể gây ra nguy cơ đột quỵ cao hơn so với từng yếu tố riêng lẻ. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ngay cả ở mức độ thấp - dưới tiêu chuẩn chất lượng không khí của EU và gần mức khuyến nghị về tiếng ồn của WHO - nguy cơ đột quỵ vẫn tăng đáng kể. Báo cáo khác của Cơ quan Môi trường châu Âu (EEA) cũng cho thấy mức độ ô nhiễm tiếng ồn cao gây ra căng thẳng sinh lý và rối loạn giấc ngủ, từ đó dẫn đến 66.000 ca tử vong sớm mỗi năm và nhiều trường hợp mắc bệnh tim, tiểu đường và trầm cảm tại châu Âu.
Chưa được đánh giá đúng mức
Khối lượng giao thông và mức độ tiếng ồn trung bình đại diện cho vấn đề đầu tiên với ô nhiễm tiếng ồn ở Việt Nam. Giao thông là nguồn phát sinh tiếng ồn lớn nhất tại các đô thị Việt Nam như TP.HCM và Hà Nội, Huế, Ninh Thuận, Bình Dương, Cần Thơ,... Tại những nơi này, tiếng ồn từ xe máy, ô tô và phương tiện công cộng thường xuyên vượt mức quy chuẩn quốc gia (70 dBA). Trong bài báo “
Noise pollution in developing countries: Loopholes and recommendations for Vietnam law” (Ô nhiễm tiếng ồn ở các nước đang phát triển: Kẽ hở và khuyến nghị cho luật pháp Việt Nam) mới công bố trên tạp chí
City and Environment Interactions thuộc nhà xuất bản ScienceDirect, các tác giả Nguyễn Chính Quang, Chu Thị Thanh An, Trương Gia Bảo và Nguyễn Hồng Thục Duyên cho biết, chỉ số tiếng ồn giao thông tại Thành phố Hồ Chí Minh lên đến 83,1 dBA.
Ô nhiễm tiếng ồn là vấn đề toàn cầu, nhưng Việt Nam có những đặc thù riêng so với nhiều quốc gia khác. Theo TS. Nguyễn Chính Quang, giao thông là nguồn gây ồn chính ở hầu hết các đô thị lớn như New York, London, Tokyo hay Bangkok. Tại các nước đang phát triển, tiếng ồn từ xây dựng, công nghiệp và sinh hoạt – quán bar, khu vui chơi – cũng phổ biến, tương tự Việt Nam. Điểm khác biệt là hệ thống giao thông đô thị ở Việt Nam phụ thuộc nhiều vào xe máy, với tình trạng kẹt xe nghiêm trọng tại Hà Nội và TP.HCM, khiến mức độ tiếng ồn từ phương tiện này cao hơn. Trong khi đó, nhiều quốc gia khác ưu tiên phát triển tàu điện ngầm, xe buýt công cộng để giảm ùn tắc và tiếng ồn. Ngoài ra, việc sử dụng còi xe ở Việt Nam phổ biến hơn hẳn, trong khi ở các nước phát triển, hành vi này được kiểm soát chặt chẽ.
Mặc dù Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp để kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn, nhưng vẫn tồn tại nhiều thách thức lớn trong việc thực thi và quản lý hiệu quả. Các thách thức này bao gồm hạn chế trong hệ thống pháp luật, khó khăn trong thực thi, thiếu công nghệ giám sát, nhận thức cộng đồng thấp và sự gia tăng các nguồn tiếng ồn, hệ thống pháp luật chưa rõ ràng và đồng bộ. “Hiện nay, QCVN 26:2010/BTNMT chỉ đưa ra mức giới hạn tiếng ồn chung, mà chưa phân loại cụ thể theo từng nguồn phát sinh. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp quản lý và xử phạt phù hợp. Ví dụ như tiếng ồn từ karaoke, quán nhậu, giao thông hay công nghiệp đều có tính chất và mức độ ảnh hưởng khác nhau, nhưng lại không được quy định riêng biệt. Ngoài ra, một số khu vực đặc thù như công trình xây dựng, khu vui chơi giải trí hay các khu vực gần bệnh viện – nơi mà tiếng ồn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và sự an toàn của cộng đồng – cũng không có quy định giới hạn cụ thể. Sự thiếu chi tiết này khiến việc quản lý tiếng ồn trở nên thiếu hiệu quả, đồng thời gây khó khăn trong việc xác định trách nhiệm của các bên liên quan. Tiếp đến, một trong những vấn đề lớn của hệ thống pháp luật hiện hành là sự chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ, các hành vi vi phạm liên quan đến tiếng ồn có thể bị xử lý theo Nghị định 45/2022/NĐ-CP (liên quan đến bảo vệ môi trường) hoặc Nghị định 144/2021/NĐ-CP (liên quan đến an ninh trật tự). “Sự không thống nhất này dẫn đến tình trạng lúng túng trong việc áp dụng pháp luật, gây khó khăn cho cơ quan chức năng và làm giảm hiệu quả xử lý vi phạm”, TS. Nguyễn Chính Quang nhận định.
Bên cạnh đó, mức xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm tiếng ồn khá nhẹ, trong khi các hình thức phạt bổ sung chỉ áp dụng với các hành vi vi phạm lặp lại với mức độ tiếng ồn vượt quá ít nhất 10 dBA so với giới hạn quy định bởi Quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn hiếm khi xảy ra trên thực tế. Các hình thức phạt bổ sung cũng không phù hợp để giải quyết tiếng ồn ở khu dân cư, ví dụ không có quy định tịch thu phương tiện gây ô nhiễm tiếng ồn đối với cá nhân và hộ gia đình sử dụng hệ thống karaoke gây tiếng ồn.
Giải pháp nào?
Phần lớn các nước đang phát triển cũng đối mặt với những vấn đề tương tự với Việt Nam, xuất phát từ quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng. Tuy nhiên, khi so sánh với các nước phát triển hơn, như ở Nhật Bản thì các tòa nhà hay công trình ở họ được tích hợp các cấu trúc tán âm hay tiêu âm làm giảm thiểu tối đa tiếng ồn phát thải. Singapore cũng có những nỗ lực đáng kể, chủ yếu là tối ưu liên kết với nhiều bên liên quan để nâng cao ý thức của không chỉ cá nhân mà cả các tổ chức về giải quyết ô nhiễm tiếng ồn. “Những điều này thì Việt Nam đang tương đối khó để thực hiện nhanh chóng vì có nhiều rào cản cả chủ quan và khách quan”, TS. Nguyễn Chính Quang cho biết.
Nhóm nghiên cứu cho rằng, một trong những biện pháp quan trọng là hoàn thiện các quy định pháp luật về giảm thiểu và ngăn ngừa ô nhiễm tiếng ồn. “Chẳng hạn, Liên minh châu Âu đã thúc đẩy các hành động lập pháp yêu cầu sử dụng toa xe yên tĩnh để giảm tiếng ồn từ đường sắt vốn ảnh hưởng đến gần 22 triệu người ở khu vực này. Bên cạnh đó, EU quy định xây dựng bản đồ tiếng ồn ở cấp quốc gia để đánh giá mức độ tiếp xúc với tiếng ồn của các khu vực cụ thể, từ đó xây dựng các chiến lược hiệu quả nhằm giảm thiểu ô nhiễm tiếng ồn”, TS. Nguyễn Chính Quang cho biết.
Nhiều quốc gia đã áp dụng các biện pháp đa dạng nhằm kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn, từ phân loại nguồn ồn, tăng cường chế tài đến thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng. Singapore và Trung Quốc xây dựng chiến lược dựa trên phân loại nguồn gây ồn, trong khi Croatia ban hành luật tăng cường năng lực thanh tra để giải quyết khiếu nại. Singapore còn thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp cộng đồng, góp phần xử lý hiệu quả tiếng ồn trong khu dân cư. Tại Bắc Kinh, hệ thống giám sát tiếng ồn tự động kết hợp dữ liệu liên ngành đã giúp ổn định mức độ ồn giao thông. Ở Mỹ và Hà Lan, sự phối hợp giữa nhà nước – tư nhân và tổ chức phi chính phủ đóng vai trò quan trọng trong nâng cao nhận thức cộng đồng. Một số nước như Đức, Singapore, Úc còn hình sự hóa hành vi vi phạm để nhấn mạnh tính nghiêm trọng của ô nhiễm tiếng ồn.
Từ kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khuyến nghị Việt Nam hoàn thiện pháp luật kiểm soát tiếng ồn theo các hướng chính. Trước hết, cần sửa đổi quy chuẩn để phân loại nguồn gây ồn và hạ giới hạn tối đa từ 70 xuống 65 dB theo khuyến nghị WHO. Chính phủ và địa phương phải đẩy mạnh giáo dục cộng đồng, phổ biến kiến thức về tác hại tiếng ồn. Về chế tài, cần tăng thẩm quyền cho cấp xã, cho phép đo và xử lý vi phạm tại chỗ, áp dụng biện pháp bổ sung như tịch thu phương tiện gây ồn, thậm chí xem xét hình sự hóa các hành vi tái phạm. Công nghệ quan trắc tự động cần được đầu tư, tích hợp với hệ thống theo dõi chất lượng không khí để hỗ trợ hoạch định chính sách. “Đồng thời, các văn bản hướng dẫn phải làm rõ trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong giám sát, khắc phục”, nhóm nghiên cứu cho biết.
Việt Nam cũng được khuyến nghị tăng cường truyền thông để nâng cao nhận thức toàn dân – tương tự như chiến dịch đội mũ bảo hiểm trước đây – và tạo cơ chế thu hút hợp tác, chia sẻ công nghệ từ doanh nghiệp, tổ chức quốc tế nhằm giải quyết hiệu quả ô nhiễm tiếng ồn.
Theo khoahocphattrien.vn