Trong những gương mặt trí thức lớn đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp khoa học nước nhà, tên tuổi giáo sư, bác sĩ Đặng Văn Ngữ luôn chiếm một vị trí đặc biệt. Không chỉ vì những công trình khoa học nổi bật ông để lại cho ngành y học Việt Nam, mà còn bởi tinh thần cống hiến đến tận hơi thở cuối cùng của ông.
Từ Tokyo đến Việt Bắc
Năm 1943, bác sĩ Đặng Văn Ngữ (lúc này là trưởng Labo thí nghiệm Ký sinh trùng, trường Đại học Y Đông Dương2) được chọn đi tu nghiệp tại Nhật Bản với tư cách là phái viên. Với một thanh niên Việt Nam thuộc địa mang trong mình khát vọng hiểu biết và cống hiến, việc được đến một đất nước châu Á hiện đại như Nhật Bản, tiếp cận với nền y học tiên tiến, là một cơ hội quý giá. Tại Tokyo, nơi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu, Đặng Văn Ngữ làm việc dưới sự hướng dẫn của các giáo sư Nhật nổi tiếng trong lĩnh vực vi trùng học và sinh hóa. Sự cần mẫn, khả năng tư duy độc lập cùng khát vọng vượt lên đã khiến ông sớm được tín nhiệm. Chỉ trong vài năm, ông đã tham gia hàng loạt công trình về vi khuẩn học, gây ấn tượng mạnh trong giới y khoa Nhật. Đặc biệt nhất là ông tìm ra giống nấm sản xuất Penicillin và công bố bốn công trình khoa học có giá trị: “Xác định loại nấm có tính kháng sinh cao”; “Xác định công thức kháng sinh nguyên Salmonella”; “Đặc điểm tiến hóa của D. Mansoni”...
Trong suốt gần 10 năm học tập, làm việc tại Nhật, ông luôn đau đáu nghĩ về đất nước. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được Việt kiều Nhật Bản bầu là Hội trưởng Hội Việt kiều yêu nước, và cũng là một trong những trí thức tiên phong vận động bạn bè quốc tế ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã từ bỏ việc ở lại Nhật với mức đãi ngộ cao, nhất quyết trở về với Hồ Chủ tịch, với cuộc kháng chiến giành độc lập của Việt Nam. Đó không chỉ là quyết định của lý trí, mà còn là sự lựa chọn từ trái tim – chọn về với đồng bào, chọn đứng về phía cuộc đấu tranh giành độc lập.
Cuối năm 1949, GS. Đặng Văn Ngữ rời Nhật Bản, vượt qua muôn trùng hiểm nguy để trở về Việt Nam. Trong bản tự thuật năm 1952, ông cho biết “về nước tham gia kháng chiến, tôi mang theo hai bộ quần áo và một ống giống nấm Penicilin”. Trên đường về nước, khi dừng chân ở Thái Lan, ông nhận được lời khuyên nên về vùng kháng chiến ở Nam bộ. Trong khi chờ đợi chỉ thị của Trung ương, ông đã nghiên cứu nuôi nấm Penicillin với nước dừa – là nguyên liệu sẵn có ở miền Nam và mua một số dụng cụ thí nghiệm bằng thủy tinh nhằm chuẩn bị lập một phòng nghiên cứu về kháng sinh ở miền Nam.
Đêm xuống, GS Đặng Văn Ngữ cùng cộng sự “vén ống quần, tay áo làm mồi cho muỗi hút máu”, chụp bắt từng con cho vào ống nghiệm, mổ muỗi, soi kính hiển vi tìm thoa trùng sốt rét trong cơ thể muỗi. Sau đó làm tiêu bản, xác định tên khoa học.
|
Hòa mình vào kháng chiến
Trong suốt gần 10 năm học tập, làm việc tại Nhật, ông luôn đau đáu nghĩ về đất nước. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã từ bỏ việc ở lại Nhật với mức đãi ngộ cao, nhất quyết trở về với Hồ Chủ tịch, với cuộc kháng chiến giành độc lập của Việt Nam. Đó không chỉ là quyết định của lý trí, mà còn là sự lựa chọn từ trái tim – chọn về với đồng bào, chọn đứng về phía cuộc đấu tranh giành độc lập.
Sau hành trình xuyên Lào và vượt Trường Sơn, cuối tháng 12/1949, bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã về đến Liên khu IV và được tạo mọi điều kiện để hiện thực hóa những nghiên cứu của mình. Tết Nguyên đán năm 1950, trong bối cảnh kháng chiến gian khổ, một ngôi chùa nhỏ ở Yên Thành được sửa sang, cải tạo để trở thành phòng thí nghiệm – nơi thai nghén những thành tựu đầu tiên của ngành dược học kháng chiến Việt Nam.
Chính tại đây, bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã bắt đầu hành trình nghiên cứu và sản xuất kháng sinh trong điều kiện vô cùng thiếu thốn. Thiếu cân tiểu ly thì khắc phục bằng việc so thể tích, lấy mễ kê làm bàn, lấy ống tre thay cho ống nghiệm (eprouvette), trụ (cylinder) là những ống sậy... Ba lọ Penicillin bột đã ra đời, mỗi lọ chừng hai vạn đơn vị là thành quả sau.
Chứng minh rằng với những nguyên vật liệu của xứ nhà, với những phương tiện tầm thường, chúng tôi đã làm được bột Penicillin tiêm: Sáu vạn đơn vị Penicillin sản xuất trong tháng 5/1950.
Theo đề nghị của Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên và GS. Hồ Đắc Di, bác sĩ Đặng Văn Ngữ lên chiến khu Việt Bắc phụ trách phòng thí nghiệm của Đại học Y khoa.
Dưới bàn tay của ông, những thiết bị y tế thô sơ Đại học Y khoa được cải tiến, thuốc kháng sinh tự điều chế từ nguyên liệu trong rừng được sản xuất. Tuy nhiên, bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã nhận thấy việc sản xuất Penicillin kết tinh (bột) là một công việc đòi hỏi thời gian lâu dài, do vậy, không thể thỏa mãn được nhu cầu cấp thiết của quân đội và nhân dân. Ông và các giáo sư của trường Đại học Y khoa đều nhận thấy nước lọc Penicillin có tác dụng và hiệu lực hơn cả Penicillin bột nếu dùng để chữa trị tại chỗ các vết thương phẫu thuật nhiễm trùng.
Các lớp học điều chế nước lọc Penicillin nhanh chóng được tổ chức, thu hút bác sĩ, dược sĩ, sinh viên và dược tá tham gia. Tận dụng nước thân cây ngô giàu glucose – nguyên liệu sẵn có trong dân – các mẻ nấm được nuôi cấy đều đặn từ giống của phòng thí nghiệm. Đây là sáng kiến phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến, khi phương tiện, hóa chất khan hiếm. Chỉ sau hai tuần huấn luyện, học viên có thể thành thạo quy trình sản xuất Penicillin. Song song với đào tạo trực tiếp, tập san Penicillin được phát hành hằng tháng, góp phần lan tỏa kiến thức từ phòng thí nghiệm đến các cơ sở y tế địa phương.
Trong điều kiện rừng núi khắc nghiệt, không có phòng sạch, không có thiết bị hiện đại, việc nuôi cấy nấm mốc để chiết xuất nước lọc Penicillin là điều tưởng như không tưởng. Nhưng chính trong gian khổ, tinh thần sáng tạo và lòng yêu nước của ông và đồng đội đã tạo nên kỳ tích và có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn cuối kháng chiến chống Pháp. Nhờ đó, nhiều thương binh được cứu chữa kịp thời, tránh khỏi nguy cơ phải cắt cụt tay chân.
Ông không chỉ là nhà khoa học mà còn là một người thầy tận tâm. Lớp lớp sinh viên y khoa ở chiến khu đã được ông giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu trong điều kiện tối thiểu. Không ai từng gặp ông trong kháng chiến lại không ấn tượng với một dáng người nhỏ, ánh mắt hiền lành nhưng cương nghị, chiếc kính tròn và nụ cười luôn ấm áp.
Không tiếc thân mình vì nghiên cứu sốt rét
Hòa bình lập lại, vấn đề điều tra và nghiên cứu tình hình sốt rét ở nước ta - căn bệnh đã hàng nghìn năm kìm hãm bước tiến của nhân dân Việt Nam - được đặt thành kế hoạch, với quy mô rộng nhằm tìm quy luật phát sinh bệnh và có kế hoạch chống, tiêu diệt sốt rét hiệu quả và GS. Đặng Văn Ngữ đã dồn toàn lực cho nghiên cứu về phòng chống sốt rét, gồm: diệt trùng sốt rét và chống muỗi. Ông đã thành lập một nhóm chuyên gia, đi đến các vùng có sốt rét để lấy mẫu máu, khảo sát tình hình dịch tễ, tìm hiểu cơ chế lây truyền và đề xuất biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất. Từ 1955-1957, có hơn 3.000 điểm điều tra với 1/10 dân số vùng sốt rét, 646.277 người được khám lá lách, 435.370 người được thử máu, 319.087 nhà được điều tra muỗi, 168.984 điểm nước được điều tra bọ gậy.
Không chỉ ở phòng thí nghiệm, ông còn đích thân đi thực địa – vào những vùng rừng sâu, nơi sốt rét hoành hành dữ dội nhất, để quan sát tận mắt, lấy mẫu, thử nghiệm thuốc và tư vấn cho các đơn vị y tế tuyến đầu. Đêm xuống, GS. Đặng Văn Ngữ cùng cộng sự “vén ống quần, tay áo làm mồi cho muỗi hút máu”, chụp bắt từng con cho vào ống nghiệm, mổ muỗi, soi kính hiển vi tìm thoa trùng sốt rét trong cơ thể muỗi. Sau đó làm tiêu bản, xác định tên khoa học.
Năm 1964, số người sốt rét ở miền Bắc giảm đột ngột - 20 lần - một kết quả khiến Tổ chức Y tế thế giới kinh ngạc. Tuy nhiên ở miền Nam, cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng hoạt động tại vùng rừng núi, nông thôn bị sốt rét khá nhiều, có nơi chiếm hơn 50% số quân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức chiến đấu. Giáo sư Đặng Văn Ngữ muốn trực tiếp đi điều tra thực địa ở những vùng sốt rét hoành hành, hy vọng tìm ra được một loại vaccine chống sốt rét. Và đó cũng là lý do để ông đề xuất nguyện vọng đi B. Đề xuất đó không được Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng chấp nhận vì ông đã lớn tuổi và không đảm bảo an toàn cho một giáo sư đầu ngành, một nhà bác học có tiếng.
Để có thể vào Nam, có thể mang vác trên vai đủ cơ số đồ dùng cần thiết, hằng ngày GS. Đặng Văn Ngữ khoác balô đựng gạch lặng lẽ luyện tập, số gạch đựng trong balô ngày càng tăng. Một sáng mùa đông lạnh cóng, giáo sư Đặng Văn Ngữ với chiếc balô đựng 25kg gạo và một ruột tượng đựng 5kg gạo đã đi bộ một mạch từ làng Mễ Trì, qua Ngã Tư Sở, Khâm Thiên, lên Trần Hưng Đạo và dừng trước nhà riêng của Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch... Đề xuất của GS. Đặng Văn Ngữ đã được chấp thuận.
Tháng 2/1967, đoàn công tác đặc biệt của GS Đặng Văn Ngữ gồm 13 thành viên do giáo sư làm trưởng đoàn rời Hà Nội vào Vĩnh Linh. Sau một tháng hành quân bộ đoàn đã vào đến B2 - thuộc khu vực Trị Thiên-Huế, đoàn đã nhanh chóng triển khai dựng lán, “đóng trại”, tìm cách nghiên cứu vacccine chống sốt rét và các đề tài nghiên cứu về phòng chống bệnh sốt khác. Và ngay chính trên mảnh đất quê hương mình, ngày 1/4/1967, giáo sư Đặng Văn Ngữ cùng hai thành viên trong đoàn đã hy sinh sau loạt bom B52 như những người lính trên chiến trường. Và như Nghệ sĩ Đặng Nhật Minh đã viết: Cha tôi đã chia sẻ đến tận cùng số phận của đất nước, của nhân dân mình cho đến khi ông ngã xuống trên rừng Trường Sơn dưới mưa bom B-52, như bất cứ người lính nào đã ngã xuống trên dải đất này vì sự nghiệp cao cả và thiêng liêng của Tổ quốc.
Sự ra đi của giáo sư, bác sĩ Đặng Văn Ngữ là một mất mát to lớn của nền y học nước nhà. Những công trình, dữ liệu, phương pháp nghiên cứu mà ông để lại đã giúp ngành y Việt Nam làm chủ kỹ thuật điều trị sốt rét, góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu tỷ lệ tử vong và bảo vệ sức khỏe lực lượng kháng chiến.
Sau ngày giải phóng, ông được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ. Tên ông được đặt cho nhiều trường học, bệnh viện, con phố. Nhưng hơn hết, ông sống mãi trong lòng nhân dân – như một tấm gương trí thức yêu nước, cống hiến đến hơi thở cuối cùng.
Theo khoahocphattrien.vn