Có lẽ, việc lan tỏa các kết quả nghiên cứu và đưa các sản phẩm của các nhiệm vụ, đề tài KH&CN và đổi mới sáng tạo đến mọi ngóc ngách của cuộc sống thật nhiều gian nan. Nhiều người thoạt nhìn thì cho rằng, KH&CN vẫn còn ở trong tháp ngà, không mấy quan tâm đến đời sống nhưng có mấy ai biết rằng, giải pháp thì có nhưng lại hội tụ quá nhiều nút thắt và điểm nút đã làm chậm quá trình này. Ở một vùng vốn vài năm nay được cho là năng động trong việc áp dụng tiến bộ khoa học vào phát huy thế mạnh địa phương như Sơn La hay một số nơi khác cũng còn rất nhiều băn khoăn. Vì vậy trong kiến nghị gửi Bộ KH&CN, họ đã mạnh dạn đề xuất “Đề nghị xem xét theo hướng mở rộng đối tượng được giao quyền sử dụng, sở hữu tài sản khi kết thúc nhiệm vụ KH&CN (cụ thể giao cho đơn vị phối hợp cùng tham gia thực hiện nhiệm vụ) đồng thời bổ sung cơ chế chuyển giao không bồi hoàn tài sản hình thành thông qua việc triển khai nhiệm vụ KH&CN đối với các tỉnh miền núi, vùng còn khó khăn về kinh tế nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng”.
Trong mối quan tâm về cơ chế chính sách của những người làm quản lý khoa học ở cấp cơ sở, vẫn tồn tại những vấn đề mà nhiều năm đang được gác lại, chưa được giải quyết một cách ổn thỏa như mong muốn. Một trong số đó là Quỹ phát triển KH&CN địa phương. Dù được coi là một chính sách quan trọng và mang tính linh hoạt nhưng khi triển khai, quỹ phát triển KH&CN địa phương đã gặp rất nhiều rào cản. Các thông tư hướng dẫn cơ chế vận hành quỹ được hướng đến giải quyết các vấn đề này song trên thực tế lại dẫn đến nhiều khúc mắc khác. Ông Bế Đăng Khoa, Giám đốc Sở KH&CN Cao Bằng cho biết một thực tế “Cao Bằng có tổ chức mô hình quỹ, nhưng bây giờ thấy khó khăn hơn về cơ chế, mô hình hoạt động. Hiện nay quỹ có mỗi nhiệm vụ cấp phát kinh phí thôi, chưa làm thêm được cái gì cả nhưng cũng vướng. Dĩ nhiên là chúng tôi ngoài việc tài trợ như hiện nay cũng kỳ vọng sẽ đầu tư, tài trợ cho các dự án khởi nghiệp để thúc đấy hoạt động khởi nghiệp ở địa phương. Khi làm việc với các sở ngành, như Sở Nội vụ chẳng hạn, thấy rất khó khăn, không làm được”.
Không chỉ ở nơi mới còn dò dẫm tìm đường như Cao Bằng, ở những nơi đã có những thành quả bước đầu như Quảng Ngãi thì tình thế cũng không sáng sủa là bao “Với Quỹ KH&CN địa phương, chúng tôi có 10 tỉ đồng, đã cho vay 16 dự án, các dự án này hầu hết đều có hiệu quả rất cao nhưng chúng tôi đang lo có một vài dự án người ta sẽ trốn nợ. Vậy cơ chế nào để thu hồi những dự án như vậy? Tôi đã dự kiến đến một phương án tệ nhất là nếu người ta trốn nợ thì mình phải bỏ tiền ra trả”, theo lời chia sẻ của đại diện Sở KH&CN Quảng Ngãi.
Do hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên ngay cả những người giàu kinh nghiệm trong vấn đề quản lý ngân sách cũng cảm thấy chùn bước. Là một người như thế, ông Phạm Xuân Đài, Giám đốc Sở KH&CN Quảng Ninh cho rằng nếu “có cả một chương về quỹ KH&CN trong Luật KH&CN tôi cũng ủng hộ. Chúng tôi thành lập quỹ năm 2012 nhưng không thực hiện vì biên chế thì Bộ Nội vụ bắt cắt rất nhiều”. Do đó trong lúc chờ những cơ sở pháp lý rõ ràng hơn, cơ chế phù hợp hơn thì hướng giải quyết ở Quảng Ninh là “Quỹ được ủy thác qua ngân hàng chính sách, vì họ có con người”.
Bao giờ có chính sách?
Các hội nghị giám đốc Sở KH&CN toàn quốc hằng năm là cơ hội để các nhà quản lý KH&CN các cấp ngồi lại với nhau, bàn thảo và phân loại các nhóm vấn đề ưu tiên, những việc cần phải làm ngay. Khi soi chiếu vào đó, mọi người mới nhận ra rằng, chưa bao giờ KH&CN có nhiều cơ hội giải quyết các vấn đề, từ tầm vĩ mô ở cấp quốc gia, cấp ngành đến tầm vi mô cấp cơ sở, cấp địa phương, và chưa bao giờ KH&CN lại phải đối diện với nhiều thách thức như thế. Trong bối cảnh các nguồn lực, từ ngân sách đến năng lực thực hiện, đều rất hạn hẹp thì đâu là giải pháp để có thể tháo gỡ dần dần rồi một ngày nào đó có thể thay đổi cục diện?
Dẫu mang nặng tâm tư như vậy nhưng ai cũng hiểu rằng, để tháo gỡ bằng chính sách thì không thể một sớm một chiều. Tuy nhiên, việc chấp nhận độ trễ thời gian để một chính sách được ban hành và có hiệu lực cũng đồng nghĩa với việc có thể chúng ta mất đi những cơ hội quý báu. Ông Nguyễn Việt Dũng, Giám đốc Sở KH&CN TP.HCM, một trong những địa phương hàng đầu về nguồn lực, cũng không khỏi suy nghĩ “Về việc đầu tư cho đổi mới sáng tạo, chúng ta nói rất nhiều. Chúng ta nói làm sao hình thành mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo, hỗ trợ đổi mới sáng tạo ở các vùng nhưng có được một cái trung tâm thì dễ thôi nhưng làm sao để các trung tâm này được vận hành một cách hiệu quả thì lại là vấn đề rất khó khăn, vướng đủ thứ chuyện hết”. Với những trở ngại mà một người làm trực tiếp phải đối diện, ông cho rằng, trước khi xây dựng chính sách “Mình phải đi vào tìm hiểu các trường hợp rất kỹ để thiết kế rất kỹ các hướng dẫn để cho các địa phương dễ thực hiện và các cơ quan xung quanh giám sát hiểu đúng”.
Hệ quả của việc có được những cơ chế, chính sách này, theo ông Nguyễn Việt Dũng, sẽ là một tác động trên quy mô lớn, không chỉ đối với các hoạt động KH&CN và đổi mới sáng tạo mà còn là đối với các hoạt động khác của đời sống kinh tế xã hội. “Những thiết chế chính sách này cũng sẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo ở các địa phương cũng như trở thành thành tố rất quan trọng trong việc hút các nguồn vốn đầu tư xã hội. Theo phân tích của ông, nguồn lực của nhà nước chi cho KH&CN và đổi mới sáng tạo chỉ nên ở mức khoảng 20 đến 30% thôi, “phần còn lại phải từ xã hội, đó phải là nguồn chính. Nhưng làm sao để kích cầu được?”. Trong lúc “cơ chế tài chính sao cho ngân sách nhà nước chi cho R&D còn vướng rất nhiều thứ, chưa tháo gỡ được”, ông cho rằng việc tăng nguồn lực xã hội vào đầu tư cho KH&CN thông qua các quỹ KH&CN tại doanh nghiệp còn vướng mắc. “Hiện nay ở TP.HCM có 125 doanh nghiệp lập quỹ này, thường xuyên tồn đọng cỡ 3.000 đến 5.000 tỉ đồng mà không sử dụng được, hoặc không dám sử dụng. Đây là vấn đề cần tháo gỡ”.
Trong những năm qua, Bộ KH&CN cũng đã xây dựng, sửa đổi và ban hành một số thông tư, văn bản hướng dẫn mang tính tháo gỡ vấn đề, đặc biệt cho việc vận hành quỹ KH&CN tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, chưa có văn bản nào có thể tháo gỡ một cách toàn diện cả. Độ trễ của chính sách dẫn đến độ trễ của nhiệm vụ. “Ở đây, chúng ta làm chính sách thấy thì dễ, chúng ta phê bình doanh nghiệp thế này thế kia nhưng thực chất người làm trực tiếp, họ rất sợ trong bối cảnh hiện nay. Vì với doanh nghiệp nhà nước khi cơ quan thuế, thanh tra hỏi tiền [chi cho R&D] này có nguồn gốc như thế nào; với doanh nghiệp tư nhân thì lại bị cơ quan thuế nói việc chi thế này không được, không có quy định ở đâu cả. Nếu sát với doanh nghiệp hằng ngày thì chúng ta mới biết là họ rất sợ cách mình ghi trong thông tư chung chung và mỗi cơ quan nhìn nhận, hiểu theo những cách khác nhau”, ông Nguyễn Việt Dũng nói khi đề cập đến “thông tư mới về quỹ KH&CN của doanh nghiệp thay thế cho thông tư cũ đọc cũng rất mơ hồ”.
Do đó, trong nỗi mong chờ những cơ chế mới, họ đều nghĩ đến những “cơn mưa” chính sách sao cho thật phù hợp, thật hiệu quả và góp phần tháo gỡ vướng mắc, giải quyết được cơ bản những vấn đề mà họ phải đối mặt hằng ngày. Có được như vậy đã là động lực lớn để họ có thể xây dựng những nhiệm vụ, thúc đẩy công việc hỗ trợ và trao cho các doanh nghiệp, các đơn vị trong và ngoài công lập cơ hội phát triển. Đó là những đề bài, những đơn đặt hàng chính sách mà họ, từ những công việc hằng ngày rất cụ thể của mình, đặt ra cho các nhà quản lý ở Bộ KH&CN. Họ có thấu hiểu những thách thức trong xây dựng chính sách của đơn vị quản lý cấp trên không? Có lẽ là có bởi nói như bà Võ Thị Hảo, Giám đốc Sở KH&CN Lâm Đồng “Thực ra năm nay thì các hoạt động của chúng ta đều có nhiều thách thức và khó khăn, và trong bối cảnh nếu không có cơ chế chính sách đồng bộ thì rõ ràng chúng ta sẽ còn phải đối mặt với nhiều khó khăn nữa trong thời gian tới. Vì vậy các sở KH&CN chỉ hi vọng rằng, chúng ta sẽ có được sự đồng bộ trong hệ thống chính sách để hoàn thành các chỉ tiêu được giao”.
Theo thống kê từ các Sở KH&CN, năm 2023 các địa phương đã triển khai thực hiện 2.658 nhiệm vụ KH&CN, trong đó có 717 nhiệm vụ mở mới (bao gồm cả nhiệm vụ cấp tỉnh và nhiệm vụ cấp cơ sở). Trong đó, khoa học nông nghiệp tiếp tục là lĩnh vực chiếm tỷ lệ cao nhất với 1.081 nhiệm vụ (chiếm 40,7%); tiếp đến là khoa học kỹ thuật và công nghệ (521 nhiệm vụ, chiếm 19,6%), khoa học xã hội (517 nhiệm vụ, tỷ lệ và 19,5%); khoa học giáo dục - đào tạo, y - dược (331 nhiệm vụ, chiếm tỷ lệ 12,4%); khoa học nhân văn (106 nhiệm vụ, chiếm 4,0%); chiếm tỷ lệ thấp nhất (3,8%) là khoa học tự nhiên với tổng số 99 nhiệm vụ được triển khai.
Trong năm 2023, các công nghệ được chuyển giao tại địa phương tập trung chủ yếu ở lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp với khoảng 25 công nghệ mới, công nghệ tiên tiến được chuyển giao ứng dụng, tổng kinh phí đầu tư trên 41,7 tỷ đồng. Có khoảng 30 nhiệm vụ KH&CN hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao, ứng dụng, đổi mới công nghệ được triển khai; 37 doanh nghiệp được hỗ trợ ứng dụng, đổi mới công nghệ; 67 doanh nghiệp được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng.
Các địa phương đã hướng dẫn xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho: 2.598 lượt nhãn hiệu; 38 lượt đăng ký về chỉ dẫn địa lý; 107 lượt đăng ký kiểu dáng công nghiệp; 74 lượt sáng chế/giải pháp hữu ích; 39 lượt các đối tượng khác. Hướng dẫn bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cho: 361 nhãn hiệu; 9 chỉ dẫn địa lý, 5 kiểu dáng công nghiệp, 14 sáng chế/giải pháp hữu ích… Công tác hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ: có 144 dự án/nhiệm vụ được hỗ trợ về phát triển tài sản trí tuệ; 24 sáng kiến, cải tiến được bảo hộ, khai thác; 134 sản phẩm đặc thù được hỗ trợ bảo hộ, quản lý quyền sở hữu trí tuệ …
(Trích Kỷ yếu Hội nghị Giám đốc Sở KH&CN toàn quốc 2024)
|
Theo khoahocdoisong.vn