• Tin tiêu điểm
Khoa học & Công nghệ › Khoa học XH & NV4/9/2025 14:49

Nâng cao khả năng phục hồi sinh kế trước biến đổi khí hậu

Một nghiên cứu công bố gần đây trên tạp chí "Environmental Development" đã kiến nghị một số giải pháp giúp các cộng đồng dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng tại Việt Nam có khả năng phục hồi sinh kế sau mỗi biến cố thiên tai.

Các chuyên gia trường Đại học Vinh hướng dẫn các hộ gia đình tại bản Phồng, xã Tam Hợp, Nghệ An kỹ thuật xây dựng vườn ươm và ươm giống cây hương nhu trắng bằng hạt để tạo sinh kế mới. Ảnh: Gender Forest Climate - Explore-GFC

Khả năng phục hồi sinh kế kém

Một trong những khái niệm đo lường mức chống chịu của một cộng đồng trước những cú sốc thiên tai là “khả năng phục hồi sinh kế của hộ gia đình” (household livelihood resilience - HLR). Khái niệm này được đo bằng năm nguồn vốn là tài chính, con người, xã hội, vật chất và tự nhiên, trên thang điểm từ 0 đến 1. Hiểu một cách đơn giản, một cộng đồng càng có khả năng “bật dậy” trước những nghịch cảnh từ thiên nhiên khi họ có tiềm lực mạnh về tiền bạc, học vấn, cơ sở vật chất, nơi sinh sống tiện lợi và có mạng lưới mối quan hệ rộng để hỗ trợ lúc khó khăn.

Việt Nam hiện có khoảng 25 triệu người dân sống phụ thuộc vào rừng, trong đó phần đông là người dân tộc thiểu số sinh sống tại miền núi, vùng sâu, vùng xa - các địa bàn còn nhiều khó khăn về phát triển kinh tế - xã hội. Thu nhập của họ thường thấp và không ổn định do diện tích đất lâm nghiệp có thể khai thác ngày càng ít sau chủ trương đóng cửa rừng hoàn toàn từ năm 2017, và đặc biệt là tính chất công việc dễ bị tác động bởi thiên tai và biến đổi khí hậu do phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Một nghiên cứu công bố gần đây trên tạp chí Environmental Development cho thấy chỉ số HLR của hai cộng đồng dân tộc Thái và Tày Poọng sống phụ thuộc vào rừng tại hai xã Tam Thái và Tam Hợp, tỉnh Nghệ An (theo phân chia đơn vị hành chính trước 1/7/2025) gần khu vực rừng quốc gia Pù Mát có khả năng phục hồi sinh kế chỉ ở mức 0,434 - dưới mức “có thể chấp nhận được” là 0,5.
 
Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ dự án “Giới, Biến đổi khí hậu và Quản trị cảnh quan rừng: Các phát hiện từ CHDCND Lào, Myanmar và Việt Nam”, do Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy Điển (SIDA) tài trợ thông qua RECOFTC, tổ chức hỗ trợ nâng cao năng lực lâm nghiệp cho cộng đồng trên thế giới. Đây là một nghiên cứu liên ngành quy tụ các nhà khoa học ở cả lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Mặc dù có thể kết quả chung của nghiên cứu không mới với nhiều người, nhưng điểm đặc biệt là nó chỉ ra cụ thể những khía cạnh vốn sinh kế mà người dân cần hỗ trợ nhất.
 
Hai nguồn vốn có điểm số thấp nhất là tài chính (0,207) và tự nhiên (0,393). Về mặt tài chính, hầu hết các hộ gia đình đều không có tiền gửi ngân hàng và không sở hữu đất nông nghiệp. Với nguồn vốn tự nhiên, có một mâu thuẫn là các cộng đồng này phụ thuộc chặt chẽ vào rừng, nhưng những gì rừng đem lại cho họ lại khiêm tốn bởi diện tích rừng cũng như quyền khai thác rừng của người dân ngày càng bị thu hẹp. Điều đáng nói nhất là các hộ đều không nhận được hoặc chỉ nhận được khoản phí chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) ở mức vài trăm hoặc một triệu đồng mỗi năm - “mức tiền quá nhỏ bé so với tổng thu nhập của họ, cho thấy họ là những cộng đồng bảo vệ rừng nhưng được thụ hưởng từ dịch vụ môi trường rừng thực sự rất thấp”, TS. Hồ Thị Phương, Viện Công nghệ hóa sinh và Môi trường, trường Đại học Vinh, tác giả chính của nghiên cứu, phân tích.
 

Để có thể tăng cường khả năng phục hồi sinh kế của phụ nữ trước thiên tai phải lồng ghép quan điểm giới vào các chính sách và chương trình phát triển thay vì coi bình đẳng giới như một vấn đề độc lập. Mọi chương trình tập huấn nâng cao năng lực cho cộng đồng phải cân nhắc yếu tố nhạy cảm giới, các chương trình không thể thiết kế chung cho cả nam cả nữ.

PFES hiểu một cách nôm na là cơ chế tài chính yêu cầu các công ty hưởng lợi từ rừng (như doanh nghiệp cấp nước, nhà máy thủy điện, công ty du lịch) phải trả tiền cho những cá nhân, tổ chức tham gia bảo vệ rừng. Mặc dù Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam là một trong những nước ủng hộ hệ thống PFES mạnh mẽ nhất và đã thu được gần 400 triệu USD kể từ khi bắt đầu triển khai năm 2008, nhưng những cộng đồng thiểu số có vai trò cốt lõi, chủ yếu trong việc gìn giữ những giá trị của rừng vẫn chưa thực sự được đền đáp tương xứng.
 
Một phát hiện đáng kể của nhóm nghiên cứu là phụ nữ thường có khả năng phục hồi sinh kế kém hơn so với nam giới, chủ yếu do nguồn vốn xã hội của phụ nữ thấp hơn. TS. Hồ Thị Phương khẳng định phát hiện này rất quan trọng vì nó cung cấp bằng chứng định lượng cho thấy phụ nữ thực sự vẫn đang yếu thế hơn và ở khía cạnh nào. TS. Nguyễn Quang Tân, Giảng viên Đại học Huế, thành viên của nhóm nghiên cứu, giải thích điều này là do phụ nữ ít được đại diện cho hộ gia đình tham gia các khóa tập huấn về phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu tại địa phương cũng như các cuộc hội họp có tính chất quan trọng tại thôn làng, “một phần vì họ ngại, một phần khác là từ định kiến truyền thống, người ta vẫn nghĩ nam giới hay người chồng luôn chịu trách nhiệm cho gia đình về các vấn đề xã hội và là ‘trụ cột gia đình’, còn phụ nữ chỉ xoay quanh việc cơm nước, chăm sóc gia đình”.
 
Tuy nhiên, có một điểm sáng là các chỉ số về tiếp cận đường sá (0,956), hệ thống thủy lợi (0,809) và tiếp cận trường học (0,734) của các cộng đồng được nghiên cứu cao, cho thấy nhiều chương trình quốc gia hướng tới đồng bào dân tộc thiểu số và người dân sinh sống tại các vùng khó khăn đã “phát huy hiệu quả thực sự trong đầu tư cơ sở hạ tầng” cho những cộng đồng này, nếu không “chắc chắn khả năng bị tổn thương của họ sẽ còn cao hơn nữa”, TS. Hồ Thị Phương nhận xét.

Cải thiện các nguồn vốn sinh kế

Trong khi vốn tự nhiên không dễ thay đổi do yếu tố khách quan, các nhà nghiên cứu cho rằng hai yếu tố quan trọng nhất là vốn tài chính và vốn con người “bằng mọi cách phải nâng cao”. Đây cũng là hai nguồn vốn đòi hỏi nhiều thời gian cùng những chính sách linh hoạt, khéo léo do cần “phát triển kinh tế bằng nội lực của họ chứ không phải bằng cách hỗ trợ. Do vậy, cái họ cần là đào tạo kỹ thuật, hướng dẫn hỗ trợ và sự đồng hành của rất nhiều bên liên quan giúp họ có nội lực để thoát nghèo thực sự”, TS. Hồ Thị Phương cho biết. Chẳng hạn, có thể đa dạng hóa sinh kế, giảm sự phụ thuộc vào rừng của họ bằng cách tìm đường thương mại hóa các nghề thủ công và tận dụng nguồn thu nhập ít ỏi để đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác.
 
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu đề xuất triển khai mô hình tài chính vi mô cho cộng đồng, đặc biệt do phụ nữ dẫn dắt, trong đó các thành viên trong cộng đồng đóng góp một khoản tiền nhất định hằng năm để tạo thành một quỹ chung. Trong trường hợp hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai hay biến đổi khí hậu, họ có thể vay từ quỹ này với lãi suất rất ưu đãi để phục hồi sinh kế. Quỹ này có hoạt động gần giống một ngân hàng nhưng hoàn toàn do cộng đồng quản lý, hoạt động dựa trên niềm tin giữa mối quan hệ xã hội trong xã, thôn, bản mà không cần sự can thiệp của nhà nước. Mô hình này đã được triển khai thành công ở một số tỉnh miền núi phía Bắc. Nhóm nghiên cứu thừa nhận đây là một sáng kiến hay nhưng để triển khai được cần phải nâng cao khả năng quản lý tài chính của người tham gia. Trong mô hình thí điểm với phụ nữ dân tộc Thái và Tày Poọng, TS. Hồ Thị Phương nhận thấy trong khi những người phụ nữ Thái có năng lực quản lý và xoay vòng nguồn quỹ khá tốt, những người phụ nữ Tày Poọng lại cần các hỗ trợ kỹ thuật và “cầm tay chỉ việc” nhiều hơn. Vì vậy, nhóm nghiên cứu đang áp dụng mô hình 1-1, bắt cặp các hộ gia đình đã thoát nghèo và có năng lực quản lý tài chính tương đối tốt với các hộ nghèo để họ đồng hành, chia sẻ kinh nghiệm với nhau.
 
Nghiên cứu còn cho thấy trình độ học vấn của người dân đang thấp một cách đáng báo động. Chỉ số này (nằm trong vốn con người) chỉ đạt 0,066 điểm, và rất hiếm người có trình độ ở mức Trung học phổ thông. TS. Hồ Thị Phương đánh giá những chính sách về giáo dục hướng tới đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chưa đủ mạnh để đạt được những kết quả khả quan như những chính sách về phát triển cơ sở hạ tầng. “Chúng ta xây một con đường có thể chỉ mất một vài tháng, nhưng phát triển kinh tế, con người, giáo dục sẽ cần một chiến lược thực sự dài hơn rất nhiều, chắc chắn nó cần cả một thế hệ”, chị nói.
 
Để có thể tăng cường khả năng phục hồi sinh kế của phụ nữ trước thiên tai phải lồng ghép quan điểm giới vào các chính sách và chương trình phát triển thay vì coi bình đẳng giới như một vấn đề độc lập. “Mình thấy nhiều khi tập huấn cho phụ nữ mãi mà không nâng họ lên được. Thay vào đấy, chúng ta phải tập huấn cho cả ông chồng”, TS. Nguyễn Quang Tân chia sẻ. Anh cho rằng sẽ là thiếu sót nếu việc trao quyền cho phụ nữ không đi kèm với việc thay đổi suy nghĩ của nam giới, bởi vì ở nhiều cộng đồng, “ông chồng quyết định có cho vợ tham gia không”. Ngoài ra, TS. Nguyễn Quang Tân đề xuất mọi chương trình tập huấn nâng cao năng lực cho cộng đồng phải cân nhắc yếu tố nhạy cảm giới, tức là các chương trình không thể thiết kế chung cho cả nam cả nữ, “mà tùy vào giới tính, tâm sinh lý của nam giới và văn hóa ở vùng đó, mình sẽ thiết kế cho phù hợp với bối cảnh”.
Theo khoahocphattrien.vn

Lượt xem: 8

Tin mới nhất:

Văn bản chỉ đạo điều hành

Về việc tổ chức thực hiện văn bản số 246/LHHVN ngày 16/4/2025 của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

Quyết định Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 12 Quy chế xét chọn, tôn vinh danh hiệu “Trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu” trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang ban hành kèm theo Quyết định số 15/2021/QĐ-UBND ngày 24 tháng 9 năm 2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang

V/v đề xuất, đặt hàng nhiệm vụ KH&CN, BVMT năm 2025

Quyết định trao giải thưởng Cuộc thi Sáng tạo dành cho thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Tuyên Quang năm 2023

V/v triển khai và thực hiện văn bản

V/v hưởng ứng, tham gia cuộc thi trực tuyến "Tìm hiểu pháp luật về xử lý vi phạm hành chính"

Triển khai và thực hiện văn bản

Phối hợp triển khai thực hiện kế hoạch số 57/KH-UBND ngày 27/3/2023 của UBND tỉnh

Kế hoạch Thực hiện Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

Thông báo công khai danh sách đề nghị UBND tỉnh tặng danh hiệu "Trí thức Khoa học và Công nghệ tiêu biểu" năm 2023

Về việc triển khai và thực hiện văn bản của MTTQ tỉnh về  lấy ý kiến nhân dân với dự thảo Luật đất đai sửa đổi

Thông báo Về việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký tham gia xét chọn danh hiệu "Trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu" tỉnh Tuyên Quang

Chưa có video
Số lượt truy cập: 2385053- Đang online : 349