Quy định về "Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" trong Bộ luật Dân sự năm 2015
Ngày 24 tháng 11 năm 2015 Quốc hội Khóa 13 kỳ họp thứ 10 đã thông qua toàn văn Bộ luật Dân sự, với tổng số 689 điều được chia thành 6 phần và 27 chương, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017.
Trên cơ sở kế thừa nội dung của Bộ luật Dân sự năm 2005 và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung rất nhiều quy định mới nhằm điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội đang nảy sinh trong đời sống xã hội về lĩnh vực dân sự. Trong phạm vi bài viết này, xin đề cập nội dung của Bộ luật Dân sự năm 2015 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định trong Bộ luật Dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2015 kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và có sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới để đảm bảo tính đồng bộ, lô gíc, thống nhất trong hệ thống pháp luật, tính phù hợp của pháp luật dân sự trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội mới cũng như sự phát triển của đời sống xã hội.
Đối với nội dung "Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", Bộ luật Dân sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số vấn đề cơ bản như về căn cứ phát sinh, nguyên tắc, năng lực chịu trách nhiệm và mức bồi thường bù đắp về tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại và một số trường hợp cụ thể về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như: bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra; bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra; bồi thường thiệt hại do xâm phạm mô mả, cụ thể là:
1. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, được xác định như sau:
Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.
Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc do có thỏa thuận, luật có quy định khác.
2. Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, được quy định như sau:
Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
3. Về mức bồi thường bù đắp về tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại, nếu so với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì có sửa đổi về cơ bản, (chủ yêu là tăng mức bồi thường để bù đắp một phần tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại khi có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm bị thiệt hại) và bổ sung mức bồi thường trong trường hợp xâm phạm thi thể, mồ mả, cụ thể như sau:
3.1.Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: cách tính thiệt hại gồm các khoản:
a. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự tức là những khoản chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
b. Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c. Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d. Thiệt hại khác do luật quy định.
Ngoài các khoản trên, thì người gây thiệt hại còn phải bồi thường một khoản được gọi là tổn thất về tinh thần cho người thân nhất của nạn nhân. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, (Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định không quá 60 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định).
3.2. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: Cách tính thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d. Thiệt hại khác do luật quy định.
Ngoài các khoản trên, thì người gây thiệt hại còn phải bồi thường một khoản được gọi là tổn thất về tinh thần cho người thân nhất của người bị thiệt hại. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định không quá 30 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định).
3.3. Thiệt hại do thi thể bị xâm phạm:
Thiệt hại do xâm phạm thi thể gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại. Ngoài ra, người chịu trách nhiệm bồi thường khi thi thể bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết, nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này.
Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi thi thể bị xâm phạm không quá 30 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
3.4. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm: Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
Ngoài các khoản trên, người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.
Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
3.5. Thiệt hại do xâm phạm mồ mả của người khác: Thiệt hại do xâm phạm mồ mả gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.
Ngoài ra, người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp mồ mả của người khác bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích theo thứ tự hàng thừa kế của người chết; nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi mồ mả bị xâm phạm không quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Những quy định trên là căn cứ pháp lý quan trọng để những người bị thiệt hại bảo đảm quyền được bồi thường trong các trường hợp Bộ luật đã ghi nhận.
Lượt xem: 2550
◆V/v đề xuất, đặt hàng nhiệm vụ KH&CN, BVMT năm 2025
◆V/v triển khai và thực hiện văn bản
◆V/v hưởng ứng, tham gia cuộc thi trực tuyến "Tìm hiểu pháp luật về xử lý vi phạm hành chính"
◆Triển khai và thực hiện văn bản
◆Phối hợp triển khai thực hiện kế hoạch số 57/KH-UBND ngày 27/3/2023 của UBND tỉnh
◆Về việc tiếp nhận hồ sơ xét chọn danh hiệu "Trí thức KH&CN tiêu biểu"